Sự Hiệp Một của Vợ Chồng

1,966 views

 

YouTube: https://youtu.be/K-R0mx3BwGY

202007 Bài Giảng Trong Năm 2020
Sự Hiệp Một của Vợ Chồng

Huỳnh Christian Timothy
Huỳnh Christian Priscilla

Kính mời quý con dân Chúa dành thời gian nghe bài giảng này, có nhiều thí dụ và giải thích chi tiết hơn là phần bài viết.

Bấm vào nút “play” ► dưới đây để nghe

Bấm vào nút “play” ► dưới đây để nghe

Bấm vào một trong các nối mạng dưới đây để nghe hoặc tải xuống mp3 bài giảng này:

Bấm vào một trong các nối mạng dưới đây để tải xuống bài viết pdf:

“Nhưng từ lúc đầu của sự sáng thế, Đức Chúa Trời đã làm ra họ, một người nam và một người nữ. Vì cớ đó, người nam sẽ lìa cha và mẹ của mình mà gắn bó với vợ của mình. Cả hai sẽ nên một thịt. Như thế, họ chẳng còn là hai mà là một thịt.” (Mác 10:6-8).

Trên đây là lời phán dạy của Đức Chúa Jesus Christ về sự hiệp một của vợ chồng. Qua lời phán của Ngài, chúng ta nhận thấy: Chúa xác nhận rằng, từ lúc đầu của sự sáng thế, Đức Chúa Trời đã dựng nên loài người là một người nam và một người nữ để họ kết hiệp làm vợ chồng.

Khi chúng ta đối chiếu lời phán của Đức Chúa Jesus Christ với Sáng Thế Ký đoạn 1 và 2, thì chúng ta hiểu rằng, lời phán của Đức Chúa Jesus Christ cũng chính là lời công nhận chi tiết về việc Thiên Chúa dựng nên loài người như đã được Thánh Kinh ghi chép. Mà nếu chi tiết về sự Thiên Chúa dựng nên loài người như đã ghi chép trong Sáng Thế Ký 1 và 2 là đúng theo nghĩa đen, thì toàn bộ các chi tiết còn lại về sự sáng thế cũng đúng theo nghĩa đen. Vì thế, khi một số Thần học gia trong các giáo hội dạy rằng, sự sáng tạo được ghi lại trong sách Sáng Thế Ký không thể hiểu theo nghĩa đen mà chỉ có thể hiểu rằng, đó là cách trình bày tượng trưng, thì chính họ đã phản bác lời xác nhận của Đức Chúa Jesus Christ.

Lu-ca 24:27 cũng ghi lại sự kiện Đức Chúa Jesus Christ đã công nhận toàn bộ Thánh Kinh là ghi chép về Ngài:

“Bắt đầu từ Môi-se và hết thảy các tiên tri, Ngài giảng giải cho họ những điều chỉ về Ngài trong cả Thánh Kinh.” (Lu-ca 24:27).

Dĩ nhiên, “Thánh Kinh” được nói đến trong Lu-ca 24:27 là phần Cựu Ước. Vì vào thời của Đức Chúa Jesus Christ thì Thánh Kinh phần Tân Ước chưa được viết ra. Còn khi Thánh Kinh Tân Ước được viết ra thì con dân Chúa đã thấy rõ, toàn bộ Thánh Kinh Tân Ước viết về Đức Chúa Jesus Christ và dạy về nếp sống mới trong Ngài.

Để hiểu rõ sự hiệp một của vợ chồng và sự tương quan của nó với sự hiệp một giữa Đấng Christ và Hội Thánh, thì chúng ta phải dựa vào những lời dạy dỗ của Thánh Kinh và sự soi dẫn của Đức Thánh Linh. Vì Đức Thánh Linh là Thần Lẽ Thật, Đấng dẫn chúng ta vào mọi lẽ thật (Giăng 16:13).

Xét về quan hệ tình cảm của loài người thì mối quan hệ vợ chồng là mối quan hệ đầu tiên giữa người với người. Tiếp theo đó là mối quan hệ giữa cha mẹ và con cái. Rồi mới đến mối quan hệ giữa anh chị em. Cả ba mối quan hệ này hiệp thành khối tình cảm trong một gia đình.

Lý do thứ nhất của sự hiệp một của vợ chồng là để lưu truyền dòng dõi loài người.

Mục đích của Đức Chúa Trời khi Ngài dựng nên loài người là để tìm một dòng dõi thánh. Từ dòng dõi thánh đó, Đức Chúa Trời chọn ra một số người để giao cho công việc cai trị Vương Quốc Đời Đời của Ngài. Số còn lại sẽ là những công dân của vương quốc:

“Chẳng phải Ngài chỉ làm ra một loài người dù hơi linh của Ngài là dư dật sao? Vì sao chỉ làm ra một? Ấy là để tìm một dòng dõi thánh. Vậy, các ngươi hãy cẩn thận trong thần trí mình; chớ lừa dối vợ của mình lấy lúc tuổi trẻ.” (Ma-la-chi 2:15).

Đức Chúa Trời đã không tạo dựng loài người theo cách mỗi người là một thực thể riêng biệt, với một thân vị riêng biệt, không liên quan gì đến nhau, như cách mà Ngài đã dựng nên các thiên sứ. Nhưng Ngài đã tạo nên chỉ một thực thể loài người với hai thân vị, gọi là thân vị nam và thân vị nữ. Thân vị là ý thức đạo đức, ý chí, cùng các chức năng nhận thức, phân tích, suy luận, và cảm giác của một thực thể. Chỉ Thiên Chúa, các thiên sứ, các sinh vật trong thiên đàng, và loài người là có thân vị.

Hai thân vị nam và nữ đó hiệp một với nhau, sinh ra nhiều thân vị nam và nữ khác. Rồi những thân vị nam và nữ khác đó lại hiệp một với nhau sinh ra nhiều thân vị nam và nữ khác nữa; cho đến khi có đủ số lượng thân vị người cần thiết để hiệp thành một nhóm người đặc biệt, gọi là Hội Thánh của Đức Chúa Trời trong Đấng Christ, và có đủ số lượng thân vị người cần thiết để thiết lập Vương Quốc Ngàn Năm.

Khi đã có đủ số người cho Hội Thánh thì Đức Chúa Jesus Christ sẽ giáng lâm giữa chốn không trung để đem Hội Thánh ra khỏi thế gian, đưa Hội Thánh vào trong thiên đàng, chờ ngày Vương Quốc Ngàn Năm được thành lập. Ngày ấy sẽ đến vào khoảng hơn bảy năm sau đó. Kế tiếp thì Kỳ Tận Thế kéo dài suốt bảy năm sẽ xảy ra. Trong Kỳ Tận Thế sẽ có thêm rất nhiều người tin Chúa cho đủ số người được vào trong Vương Quốc Ngàn Năm. Cuối Kỳ Tận Thế thì Đức Chúa Jesus Christ sẽ thiết lập Vương Quốc Ngàn Năm. Khi đó, trên trái đất chỉ còn lại những người tin Chúa, vì những người không tin Chúa thì đã bị diệt bởi Đấng Christ. Khi đó, các thánh đồ đã qua đời trước thời Cựu Ước, trong thời Cựu Ước, và trong Kỳ Tận Thế đều được sống lại. Những người được sống lại đó sẽ cùng với những người đang sống bước vào Vương Quốc Ngàn Năm.

Như vậy, chúng ta thấy, lý do Đức Chúa Trời dựng nên loài người với hai thân vị nam và nữ là vì Ngài muốn chỉ có một dòng dõi loài người mà thôi. Vì thế mà người nữ được làm ra từ người nam, cùng chung một bản thể loài người với người nam.

Vì sao Đức Chúa Trời chỉ muốn có một dòng dõi loài người? Vì như vậy thì loài người mới hoàn toàn hiệp một trong một bản thể, như ba thân vị của Thiên Chúa là một trong cùng bản thể. Dù loài người có hàng tỷ tỷ thân vị khác nhau, nhưng bản thể chỉ là một. Khi Thiên Chúa Ngôi Lời nhập thế làm người thì Ngài cũng được sinh ra trong cùng một bản thể loài người. Bởi đó, Ngài có thể hiệp một trong bản thể loài người với mỗi người trong Hội Thánh.

Nhu cầu tình dục khiến cho người nam và người nữ hiệp một để lưu truyền dòng dõi loài người.

Lý do thứ nhì của sự hiệp một của vợ chồng là để loài người thấu hiểu tình yêu.

Tình yêu là một đặc tính được Thiên Chúa ban cho loài người. Thiên Chúa là tình yêu mà loài người được dựng nên theo hình của Thiên Chúa nên loài người cũng có đặc tính yêu thương. Có thấu hiểu tình yêu thì loài người mới có thể hiểu được về Thiên Chúa.

Tình yêu trong loài người có nhiều phương diện:

  • Tình yêu giữa vợ và chồng.
  • Tình yêu giữa cha mẹ và con cái.
  • Tình yêu giữa anh chị em.
  • Tình yêu giữa tộc họ.
  • Tình yêu giữa bạn bè.
  • Tình yêu giữa loài người với nhau.
  • Tình yêu giữa loài người và các loài thọ tạo khác.

Trong bảy phương diện tình yêu, chỉ có tình yêu giữa vợ chồng mới giúp cho loài người thấu hiểu tình yêu. Vì tình yêu giữa vợ chồng phát sinh đầu tiên trong loài người, khiến cho hai thân vị loài người hiệp làm một cách rất nhiệm mầu. Từ đó, bởi kết quả sự hiệp một của tình yêu vợ chồng mà các phương diện khác của tình yêu mới phát sinh.

A-gu-rơ, tác giả của Châm Ngôn đoạn 30 đã nói:

“Có ba sự diệu kỳ cho ta và bốn điều ta chẳng biết: Đường chim ưng trên trời; đường con rắn trên hòn đá; đường con tàu giữa biển; và đường của một người nam với một trinh nữ.” (Châm Ngôn 30:18-19).

Có thấu hiểu tình yêu thì mới có thể hiểu được và hiểu nhiều về Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là tình yêu. Thánh Kinh dạy rằng:

“Ai chẳng yêu, thì không biết Đức Chúa Trời; vì Đức Chúa Trời là Tình Yêu” (I Giăng 4:8).

Nhu cầu tình yêu khiến cho loài người hiệp một với nhau thành vợ chồng để thể hiện tình yêu của bản thân với một người khác ở mức độ cao nhất; và để được yêu lại bởi người mình yêu cũng ở mức độ cao nhất.

Lý do thứ ba của sự hiệp một của vợ chồng là để loài người thấu hiểu tình yêu và sự hiệp một nhiệm mầu giữa Đấng Christ với Hội Thánh.

Thánh Kinh cũng dùng tình yêu và sự hiệp một của vợ chồng để làm biểu tượng cho tình yêu và sự hiệp một giữa Đấng Christ và Hội Thánh.

“Hỡi những người chồng! Hãy yêu vợ mình, như Đấng Christ đã yêu Hội Thánh, phó chính mình vì Hội Thánh, để thánh hóa, làm cho Hội tinh sạch, với sự rửa bởi nước trong lời phán, [Lời phán trong Ma-thi-ơ 28:19-20.] để trình ra cho chính Ngài Hội Thánh vinh quang, không vết, không nhăn, không chi giống như vậy, nhưng thánh sạch không chỗ trách được.” (Ê-phê-sô 5:25-27).

Thánh Kinh cũng gọi sự hiệp một nhiệm mầu giữa Đấng Christ với Hội Thánh là hôn lễ của Chiên Con:

“Tôi nghe như tiếng của một đám đông lớn, như tiếng của nhiều dòng nước, như tiếng sấm dội vang rền, rằng: “A-lê-lu-gia! Vì Chúa là Đức Chúa Trời Toàn Năng cai trị. Chúng ta hãy vui vẻ, mừng rỡ, và dâng sự tôn kính lên Ngài, vì hôn lễ của Chiên Con đã tới. Vợ của Ngài đã sẵn sàng. Người đã được ban cho trang phục mịn, sạch, và trắng. Trang phục mịn là những việc làm công bình của những thánh đồ.” (Khải Huyền 19:6-8).

Chúng ta thật sự không biết sự hiệp một giữa Đấng Christ và Hội Thánh sẽ như thế nào. Chúng ta chỉ có thể hiểu rằng:

  • Đó là sự hiệp một bản thể loài người giữa Đấng Christ và mỗi người trong Hội Thánh.
  • Bởi sự hiệp một với Đấng Christ mà Hội Thánh cũng được hiệp một bản thể thuộc linh, tức tâm thần, với Thiên Chúa. Vì Đấng Christ vừa là người vừa là Thiên Chúa.
  • Bởi sự hiệp một với Đấng Christ mà Hội Thánh được đồng ngồi với Đấng Christ trong các nơi trên trời và đồng trị cơ nghiệp đời đời của Đức Chúa Trời với Ngài.

“Ngài làm cho chúng ta cùng sống lại và đặt chúng ta cùng ngồi trong các tầng trời, trong Đấng Christ Jesus, để trong các thời đại sẽ đến, Ngài sẽ tỏ ra sự giàu có vô hạn của ân điển Ngài, trong sự từ ái của Ngài, hướng về chúng ta trong Đấng Christ Jesus.” (Ê-phê-sô 2:6-7).

“Nếu chúng ta kiên trì thì chúng ta sẽ đồng trị với Ngài. Nếu chúng ta chối bỏ Ngài thì Ngài cũng sẽ chối bỏ chúng ta.” (II Ti-mô-thê 2:12).

“Tôn vinh Đức Chúa Trời và Cha của Đức Chúa Jesus Christ chúng ta. Bởi lòng thương xót lớn của Ngài mà Ngài khiến cho chúng ta được tái sinh vào trong sự trông cậy sống, qua sự sống lại từ trong những kẻ chết của Đức Chúa Jesus Christ, vào trong cơ nghiệp không hư đi, không ô uế, và không suy tàn, được để dành trong các tầng trời cho các anh chị em, là những người bởi đức tin, nhờ năng lực của Thiên Chúa giữ gìn cho sự cứu rỗi gần hiện ra trong kỳ cuối cùng!” (I Phi-e-rơ 1:3-5).

Đây là một đặc ân vô cùng lớn đã được Đức Chúa Trời ban cho những ai thuộc về Hội Thánh. Những thánh đồ khác, từ trước thời Cựu Ước, trong thời Cựu Ước, trong Kỳ Tận Thế, và trong thời Vương Quốc Ngàn Năm đều không được hưởng ơn phước này. Họ chỉ là những người bạn của chàng rể (Giăng 3:29) và họ chỉ là những khách được mời dự lễ cưới của Chiên Con (Khải Huyền 19:9).

Nhu cầu hiểu biết về tình yêu của Chúa khiến cho loài người hiệp một với nhau thành vợ chồng để qua tình yêu và sự hiệp một của vợ chồng, họ được hiểu biết càng hơn về tình yêu và sự hiệp một giữa Đấng Christ với Hội Thánh.

Nói tóm lại, sự hiệp một của vợ chồng là ý muốn và mệnh lệnh của Đức Chúa Trời đối với loài người, ngoại trừ những người được Ngài kêu gọi sống độc thân (Ma-thi-ơ 19:10-12).

“Thiên Chúa đã sáng tạo loài người như hình Ngài; Ngài đã sáng tạo loài người như hình Thiên Chúa; Ngài đã sáng tạo họ, nam và nữ. Thiên Chúa ban phước cho họ và phán: Hãy sinh sản, thêm nhiều, làm cho đầy dẫy đất; hãy làm cho đất phục tùng, hãy quản trị loài cá biển, loài chim trời cùng mỗi vật sống hành động trên mặt đất.” (Sáng Thế Ký 1:27-28).

“Nhưng để tránh sự tà dâm thì mỗi người đàn ông hãy có vợ cho mình; và mỗi người đàn bà hãy có chồng cho mình!” (I Cô-rinh-tô 7:2).

Sự hiệp một của vợ chồng vừa là sự hiệp một bởi nhu cầu tình dục, vừa là sự hiệp một bởi nhu cầu tình yêu, vừa là sự hiệp một bởi nhu cầu hiểu biết về tình yêu của Chúa.

Sự hiệp một của vợ chồng vừa là sự hiệp một của thân thể xác thịt, vừa là sự hiệp một của tâm thần để có cùng một thần trí, vừa là sự hiệp một của linh hồn để cùng có một tình cảm và quyết định.

  • Bởi thân thể xác thịt của vợ chồng hiệp một nên chồng không có quyền tự chủ về thân thể xác thịt của chồng và vợ cũng không có quyền tự chủ về thân thể xác thịt của vợ. Thân thể xác thịt của chồng đương nhiên ở dưới quyền của vợ và ngược lại:

“Vợ không có quyền tự chủ về thể xác của mình, mà là chồng. Chồng cũng vậy, không có quyền tự chủ về thể xác của mình, mà là vợ.” (I Cô-rinh-tô 7:4).

  • Bởi tâm thần của vợ chồng hiệp một nên vợ chồng có cùng một thần trí, cùng một sự hiểu biết thuộc linh, cùng một lòng tin kính Chúa.
  • Bởi linh hồn của vợ chồng hiệp một nên vợ chồng có cùng một tình cảm và quyết định trong mọi sự.

Thật ra, mỗi người trong Hội Thánh hiện nay đã hiệp một trong tâm thần và linh hồn:

“Chỉ xin các anh chị em sống nếp sống công dân xứng đáng với Tin Lành của Đấng Christ, để khi tôi đến gặp các anh chị em hoặc khi vắng mặt, tôi cũng biết về các anh chị em rằng, các anh chị em đứng vững trong một thần trí, trong một linh hồn, cùng nhau phấn đấu vì đức tin của Tin Lành. [Nếp sống công dân của Vương Quốc Trời. Xem Phi-líp 3:20.]” (Phi-líp 1:27).

Khi một người nam và một người nữ trong Hội Thánh kết hôn với nhau thì họ chỉ thêm sự hiệp một trong thân thể xác thịt:

“Cả hai sẽ nên một thịt. Như thế, họ chẳng còn là hai mà là một thịt.” (Mác 10:8).

Điều đó có nghĩa là, con dân Chúa trong Hội Thánh đã là những người hợp ý nhau. Khi kết hôn, họ chỉ cần chọn người hợp mắt mình. Chúng ta đều kinh nghiệm rằng, mình bị thu hút bởi ngoại hình, cử chỉ, giọng nói… của một ai đó. Sự thu hút đó được gọi chung là hợp mắt.

Đối với những đôi vợ chồng mà chồng hoặc vợ không tin Chúa thì họ chỉ có sự hiệp một trong xác thịt mà không có sự hiệp một trong tâm thần, trong linh hồn. Vì thế, con dân Chúa không nên kết hôn với người không tin Chúa. Tin Chúa là thật lòng ăn năn tội, hoàn toàn tin nhận sự chết chuộc tội của Đức Chúa Jesus Christ, và hết lòng sống theo Lời Chúa, chứ không phải là người mang danh tín đồ trong một tổ chức tôn giáo mang danh Chúa.

Trường hợp con dân Chúa có chồng hoặc vợ không tin Chúa thường là do họ kết hôn khi cả hai cùng không tin Chúa. Sau đó thì một trong hai người tin Chúa. Trong trường hợp chồng hoặc vợ không tin Chúa mà không bắt bớ đức tin của mình, bằng lòng sống với mình, thì con dân Chúa có thể tiếp tục duy trì cuộc hôn nhân, theo Lời Chúa dạy trong I Cô-rinh-tô 7:12-14, 16. Nếu không, thì nên ly dị theo Lời Chúa dạy trong I Cô-rinh-tô 7:15 và II Cô-rinh-tô 6:14-18.

Cũng có trường hợp ít xảy ra hơn là cả chồng lẫn vợ đều tin Chúa nhưng về sau, một trong hai người vì một lý do gì đó mà lui đi trong đức tin. Nếu người ấy không ăn năn, bị Hội Thánh dứt thông công thì con dân Chúa cũng nên ly dị người ấy.

Con dân Chúa mà chọn kết hôn với người không tin Chúa, hoặc chọn không ly dị người chồng hay vợ đã bị dứt thông công thì phạm tội nghịch lại Lời Chúa trong II Cô-rinh-tô 6:14-18.

Chắc chắn là sự hiệp một của vợ chồng mà chúng ta kinh nghiệm trong đời này giúp cho chúng ta hiểu được sự yêu thương sâu đậm và sự gắn bó mật thiết giữa Đấng Christ và Hội Thánh. Như vậy, câu hỏi được đặt ra cho chúng ta, những con dân Chúa đang có vợ có chồng là: Chúng ta có được sự cảm nhận và sự hiểu biết gì về tình yêu và sự hiệp một giữa Chúa cùng bản thân mình, thông qua tình yêu và sự hiệp một mà chúng ta đang kinh nghiệm với chồng hay vợ của mình?

Để có thể thấu hiểu tình yêu và sự hiệp một giữa Chúa cùng bản thân mình, thông qua tình yêu và sự hiệp một mà chúng ta đang kinh nghiệm với chồng hay vợ của mình, thì chồng phải yêu vợ và vợ phải vâng phục chồng như Lời Chúa đã dạy chúng ta:

Ê-phê-sô 5:21-29

21 Hãy kính sợ Thiên Chúa mà vâng phục nhau.

22 Hỡi những người vợ! Hãy vâng phục chồng mình như vâng phục Chúa.

23 Vì chồng là đầu của vợ, như Đấng Christ là đầu của Hội Thánh, và Ngài là Đấng Giải Cứu của thân thể.

24 Vậy nên, như Hội Thánh vâng phục Đấng Christ, thì những người vợ cũng phải vâng phục chồng mình trong mọi sự.

25 Hỡi những người chồng! Hãy yêu vợ mình, như Đấng Christ đã yêu Hội Thánh, phó chính mình vì Hội Thánh,

26 để thánh hóa, làm cho Hội tinh sạch, với sự rửa bởi nước trong lời phán, [Lời phán trong Ma-thi-ơ 28:19-20.]

27 để trình ra cho chính Ngài Hội Thánh vinh quang, không vết, không nhăn, không chi giống như vậy, nhưng thánh sạch không chỗ trách được.

28 Vậy nên, những người chồng phải yêu vợ mình như chính thân mình. Ai yêu vợ mình thì yêu chính mình vậy.

29 Vì chẳng có người nào lại ghét chính thân mình, nhưng nuôi nấng và vui hưởng nó, như Chúa đối với Hội Thánh.

Trong sự vợ vâng phục chồng như vâng phục Chúa đã hàm ý, vợ yêu chồng cũng như yêu Chúa. Vì một người chỉ có thể vâng phục Chúa khi người ấy yêu Chúa và biết ơn Chúa, vì nhận biết Chúa đã yêu mình hơn cả chính mình Ngài.

Những đôi vợ chồng không biết yêu nhau theo Lời Chúa dạy sẽ không có sự hiệp một trong tâm thần và linh hồn. Họ sẽ không kinh nghiệm được sự tuyệt vời của tình yêu vợ chồng. Họ cũng chẳng có sự hiểu biết về tình yêu và sự hiệp một giữa Đấng Christ với Hội Thánh. Họ chẳng những không nhận được những ơn phước thiêng liêng trong đời này, trong cuộc sống vợ chồng, mà họ cũng mất đi nhiều phần thưởng thiêng liêng trong đời sau. Là vì lẽ ra sự hiệp một trọn vẹn của vợ chồng từ linh hồn, tâm thần, cho đến xác thịt đã khiến cho họ kết nhiều quả trên bước đường theo Chúa và hầu việc Chúa.

Người chồng không yêu vợ hơn chính mình thì sẽ không được vợ yêu kính và vâng phục. Người vợ không yêu kính, không vâng phục chồng thì sẽ không được chồng yêu thương tha thiết. Mong rằng, mỗi đôi vợ chồng trong Chúa luôn làm tươi mới tình yêu vợ chồng mỗi ngày như chính Chúa luôn làm mới sự từ ái và sự thương xót của Ngài đối với chúng ta vào mỗi buổi sáng (Ca Thương 3:22-23).

Nguyện tình yêu và sự quan phòng của Đức Chúa Trời bao phủ chúng ta. Nguyện sức mới và sự bình an của Đấng Christ đầy dẫy trong chúng ta. Nguyện sự khôn sáng và các ân tứ của Đức Thánh Linh ở cùng chúng ta. A-men!

Huỳnh Christian Timothy
Huỳnh Christian Priscilla
18/04/2020

Ghi Chú

Karaoke Thánh Ca: “Bên Nhau Suốt Đời”
https://karaokethanhca.net/ben-nhau-suot-doi/

Thánh Kinh Việt Ngữ Bản Hiệu Đính 2012: Các câu Thánh Kinh được trích dẫn trong bài này là theo Thánh Kinh Việt Ngữ Bản Hiệu Đính 2012. Đây là bản Thánh Kinh Việt Ngữ trên mạng, đang trong tiến trình hiệu đính để hoàn thành Thánh Kinh Việt Ngữ Bản Dịch Ngôi Lời. Quý con dân Chúa có thể đọc tại đây: https://thewordtoyou.net/bible/.

  • Các chữ nằm trong hai dấu { } không có trong nguyên văn của Thánh Kinh, nhưng được hàm ý theo cấu trúc của văn phạm tiếng Hê-bơ-rơ và tiếng Hy-lạp.
  • Các chữ nằm trong hai dấu [ ] không có trong nguyên văn của Thánh Kinh, đó là chú thích của người dịch.

Những sách nào đã được hiệu đính hoàn toàn sẽ được đăng tại đây: https://christ.thanhkinhvietngu.net/