Hoa Huệ Giữa Chông Gai – 05 (e)

1,336 views

 

Youtube: https://youtu.be/_x-Z8eklJ1c

MP3 OpenDrive:
https://od.lk/d/MV8xOTgyMDQyNjhf/HoaHueGiuaChongGai_05e.mp3

MP3 SoundCloud:
https://soundcloud.com/huynh-christian-timothy/hoahuegiuachonggai-05e

Tải xuống bài viết, mp3, và video tại đây:
https://od.lk/fl/MV8yMDkxNzgyNF8

Anh Hùng Đức Tin
Hoa Huệ Giữa Chông Gai

Nguyên tác: Danyun
Chuyển ngữ: Vô Danh

Người Công Dân Thiên Quốc – Phần 5

Chương 15: Chúng Tôi Đi Qua Lửa Qua Nước Nhưng Chúa Đem chúng Tôi Ra Nơi Giàu Có

Vào một ngày Tháng Mười, năm 1984, Yun bị đưa khỏi trại tạm giam của thành phố B và đưa đến trại lao động cải tạo Bảo Sơn. Trại nằm ở ranh giới tỉnh Hà Nam và Hồ Bắc. Có một rặng núi bao phủ xung quanh, nên khí hậu ở đó khá đặc biệt. Hầu như cả năm có mưa và sương mù. Ở đó, có rất nhiều muỗi và rắn độc. Dân ở đây chủ yếu sống bằng nghề trồng lúa, nên trại cải tạo có hơn một nghìn tù nhân này được bao bọc bởi những ruộng lúa nước. Trong bốn năm Yun ở trại cải tạo, phân và nước trở thành người bạn hàng ngày của anh. Mỗi lần, anh xuống ruộng lúa để làm việc, đỉa bò lên chân và bắp đùi anh, nhiều đến nỗi người ta chỉ cần quơ một cái là được một nắm. Để kỷ niệm cho những năm đó, anh đã viết bài hát này:

“Cứ hết mùa xuân, hạ, thu, đông,

Tuyết đuổi theo mưa,

Dầm dề những cơn mưa nặng hạt và ít những ngày trong sáng.

Những con rắn độc, muỗi, và đỉa,

Roi điện, roi da.”

Vào ngày thứ hai, sau khi Yun đến trại cải tạo, anh phải đào một cái hố. Sau đó, họ phải khiêng đất lên bậc thang, đến trên một con dốc. Từ ngày anh bị bắt, sức khoẻ anh bị giảm sút và những sự tra tấn trên thân thể làm cho thân thể anh rất yếu. Khi anh vật lộn để khiêng một thùng đất lên đầu bậc thang, anh đã bị hoa mắt và ngất đi. Anh đã ngã xuống cùng với thùng đất trượt xuống dưới chân. Một lúc lâu sau anh mới tỉnh lại. Vì thấy chuyện như vậy, người cai đội đi hỏi thăm xem anh đã phạm tội gì mà bị kết án. Sau khi đọc lời kết án của anh, ông ta lắc đầu và nói nhỏ: “À, là vì tin Đức Chúa Jesus. Người tin Đức Chúa Jesus không phải là người xấu!”

Cảm tạ Chúa! Người quản lý đã thương cảm đến sự yếu đuối của tôi tớ Chúa. Kể từ lúc đó, người nhân viên đó có đôi chút nới lỏng cho Yun. Trước đó đã lâu, những người trong phòng của Yun đã cảm thấy anh không phải là con người bình thường. Những lời nói của anh có một sức mạnh đặc biệt, và anh nói bằng sự khôn sáng. Anh đầy dẫy tình yêu và sự thông cảm đối với những người khác. Mỗi người đều tôn trọng anh. Yun đã nổi tiếng trong tù là một Cơ-đốc nhân kiêng ăn bảy mươi tư ngày. Ở đó, có một linh mục Công Giáo bị bỏ tù mười năm, vì lý do dùng nhà thờ Công Giáo như một công cụ chính trị. Ông bị đưa đến trại cải tạo này trước Yun một năm. Yun tìm cách để gặp ông. Đầu tiên, ông linh mục thận trọng đối với Yun và không phấn khởi gì lắm, khi chào hỏi anh. Nhưng Yun cầu nguyện khẩn thiết cho ông; anh yêu mến ông từ tận đáy lòng và phục vụ ông. Anh cho ông sữa bột và vài thứ khác mà các anh chị em đã đem vào cho anh. Cuối cùng, ông muốn biết tất cả về những tra tấn cực hình mà Yun đã trải qua trong tù và anh đã kiêng ăn cầu nguyện bảy mươi tư ngày ra rao. Ông hết sức tôn trọng anh và kể từ lúc đó thái độ của ông đối với Yun đã thay đổi. Yun đưa cho ông một quyển Thánh Kinh và vài sách bồi linh. Ông vô cùng sung sướng. Ông là một người rất có học thức, và sau khi đã nghiên cứu Thánh Kinh cùng những quyển sách khác, ông chấp nhận sự dạy dỗ của Hội Thánh Cơ-đốc. Ông trở nên một trong những cộng tác gần nhất của Yun ở trại cải tạo lao động. Ông giới thiệu cho những người Công Giáo ngoài nhà tù hãy đến mà thăm Yun. Sau khi cả hai cùng được thả ra, người linh mục đã đến thăm Yun thường xuyên và thường mời anh đến nhà thờ Công Giáo để giảng. Yun tin cậy vào Đức Thánh Linh và giảng bằng quyền phép lớn, đến nỗi chính anh và những giáo dân cũng được nhận lãnh. Yun đã có ảnh hưởng đến một đời sống của một tù nhân khác có họ là Chu, là người đã vào chùa lúc lên tám tuổi, để được tu luyện thành sư. Từ đó, ông là một nhà sư qua nhiều thập niên và không chỉ ông có một kiến thức toàn diện về giáo lý Phật Giáo, mà ông còn là một người có nghệ thuật viết chữ đẹp. Mọi người càng ngạc nhiên hơn, khi thấy ông rất điêu luyện võ thuật. Ông có thể dùng ngón tay để đập vỡ gạch và đập vỡ đá bằng lòng bàn tay.

Có một lần, ông ra chợ để mua thứ gì đó, có một tên ăn cắp đã lấy cắp túi tiền ông. Ông đã túm lấy hắn và đánh rất nhẹ, nhưng tên ăn cắp đã chết. Điều đó đã bị trình thưa lên công an. Biết được Chu có khả năng võ thuật điêu luyện, nên có nhiều binh lính được phái đến để bắt ông. Thậm chí nếu có thể bay được, thì ông làm sao có thể thoát khỏi những công an có vũ khí này? Cuối cùng, Chu bị bắt và bị đánh bằng roi điện và dùi cui nửa sống nửa chết. Cánh tay trái của ông đã bị gãy.

Trong khi ông ở trung tâm tạm giam, ông được nghe về Tin Lành của Đức Chúa Jesus Christ và rất thích thú về những gì ông nghe. Ông bắt đầu nghi vấn giáo lý Phật Giáo về “vô sắc, vô dục, vô tư” và về năm kiêng cữ. Sau khi bị kết án, ông bị đưa đến trại cải tạo lao động của Yun. Anh đã giải thích cho ông về con đường cứu rỗi cao hơn qua Đức Chúa Jesus và chỉ cho ông thấy những sai lầm của Phật Giáo cùng tội lỗi của sự thờ phượng thần tượng. Chu bèn đem ra tất cả những giấy vàng, những bùa ngải đủ kiểu, những tràng hạt, và đốt chúng. Ông đã xưng nhận tội lỗi với Chúa, ăn năn và trở lại với Đức Chúa Jesus.

Một người là một linh mục Công Giáo, và người kia là một Phật tử. Nhưng cả hai đều được ân điển cứu rỗi của Đức Chúa Jesus Christ đụng chạm, và trở thành những anh em của Yun. Bạn có thể hình dung được một niềm vui lớn lao trong trái tim Yun ra sao.

Sau đó, là một tù nhân khác, một người chăn đang ở tuổi ba mươi, đã rơi vào tội lỗi, và đã kết thúc trong một trại cải tạo lao động. Cả người đó cũng gặp Yun và bởi tình yêu của Yun, sự nhắc nhở, sự hướng dẫn, và cầu nguyện, anh ấy đã nhận được sự tha thứ tội lỗi và được tái tạo về tâm linh. Người anh em này luôn luôn đứng hàng đầu, sẵn sàng chịu đựng gian khổ, yêu thương người khác như chính mình, và luôn luôn có một nụ cười.

Cho nên, anh có một tên vui là “gương mặt cười”. Vào ngày hai mươi lăm Tháng Mười Hai, năm 1985, A-hong và các anh em khác đã vào trại cải tạo thăm Yun. Yun rất xúc động vì điều đó. Anh mới nói với người đội trưởng lao động: “Hai người anh em của tôi cần đi vệ sinh và chúng tôi xin ông chấp thuận cho.” Ông đội trưởng rất dễ chịu đối với Yun và đã đồng ý. Yun làm như vậy để họ có thể thờ phượng Chúa chung với nhau. Khi cả ba người đi vào nhà vệ sinh, họ nhớ lại sự giáng sinh của Chúa trong máng cỏ. Yun bắt đầu khóc dàn dụa và quỳ gối xuống nền nhà, cầu nguyện: “Chúa ơi, hoàn cảnh như thế này, nên chúng con chỉ có thể thờ phượng Ngài thậm chí như ở chỗ như thế này. Ngài đã trở nên một trẻ thơ ở trong một máng cỏ lạnh lẽo. Chúa ơi, chúng con muốn có một phần trong máng cỏ của Ngài, một phần trong sự chịu đựng của Ngài, một phần trong thập tự giá của Ngài.”

Trong khi họ cầu nguyện như vậy, thình lình có người đi đến. Đó là một người có tên là Kê, vốn là một họ hàng với trưởng trại cải tạo lao động. Kê là tổ trưởng của tù nhân. Hắn là một người rất độc ác, chuyên môn trình những việc của tù nhân lên cho người lãnh đạo và cư xử như một bạo chúa.

Khi Kê phát hiện ra ba anh em cầu nguyện trong nhà vệ sinh, hắn quát tháo họ: “Yun, tại sao mày lại dám cả gan đưa những người bên ngoài vào trại cải tạo để thực hiện những hoạt động mê tín dị đoan. Tao sẽ báo cáo cho ban lãnh đạo trại!”

Yun được Đức Thánh Linh giáng lên anh nói dạn dĩ: “Kê, tại sao anh lại dám chống lại Đức Chúa Trời chân thật của chúng tôi? Trong danh thánh của Đức Chúa Jesus ở Na-xa-rét, tôi ra lệnh cho anh hãy quỳ xuống, nộp mình cho Chúa và ăn năn đi!”

Ha-lê-lu-gia! Những lời của anh đầy uy quyền, và quyền năng hơn cả một điều luật của hoàng đế. Chính Kê đã quỳ gối xuống và giống như Sau-lơ trên đường đến Đa-mách, nộp mình cho Chúa.

Bốn năm hoạn nạn và đau khổ ở trại cải tạo lao động sắp sửa kết thúc. Một trăm ngày, trước khi án phạt của Yun chấm dứt, công an đã đến nhà Yun và tiến hành lục soát toàn bộ. Hàng chục công an đã bao vây ngôi nhà, lục soát những ngăn kéo, và các căn phòng trong nhà anh. Kết quả là Thánh Kinh của Yun, những sách bồi linh, và sổ ghi chép bị phát hiện. Quan trọng là có những lá thư anh viết cho gia đình và Hội Thánh trong thời gian ở tù và được Đức Thánh Linh soi dẫn. Trong những lá thư này, Yun đã khuyên giục các anh chị em hãy mạnh mẽ và dạn dĩ, đừng sợ hãi những sóng gió. Anh khuyên họ đừng đi đến Hội Thánh giả của chính phủ, vì nó là một con đĩ. Mặt sau của một lá thư có viết một bài hát miêu tả cuộc sống trong tù:

“Sống trong một nơi chông gai, thật như một ngôi mộ mới.

Một người khi đã có một quỷ vào rồi, biến thành người có bảy quỷ.

Vì những xiềng xích không thay đổi một cuộc đời được tái sinh.

Một người già trở thành một người mới và hàng ngày sẽ hát tôn vinh.”

Có một lá thư khác do một anh em đã viết cho Yun, nói rằng, có một giáo sĩ Mỹ nổi tiếng được đảng và nhà nước mời đến thăm Trung Quốc và để “truyền giảng”. Sau khi họ tìm thấy những tài liệu đó, công an an ninh đã ngay lập tức đến nhà tù, vào phòng Yun, ở đó họ thấy Thánh Kinh, những sách vở bồi linh, và sách cầu nguyện hàng ngày.

Yun bị trói và bị đưa lên phòng tra khảo. Ông chỉ huy của công an, những cán bộ của trại cải tạo và nhiều công an đều nhìn chĩa vào anh. Ông chỉ huy chỉ vào anh nói: “Mày là thằng tù chết tiệt, mày không sợ gì à?”

Yun trả lời bình tĩnh: “Thưa ông chỉ huy, tôi muốn báo cáo cho ông là kể từ khi tôi bị bắt cho đến nay tôi đã tuân theo những nội quy nhà tù, tôn trọng những người lãnh đạo, làm việc chăm chỉ, và tôi không phạm tội gì?”

Ông ta quá điên tiết vì câu trả lời đó và đã đập bàn nguyền rủa Yun: “Mày là thẳng đểu cáng. Mày đã dùng mọi thủ đoạn. Đầu tiên khi mày bị bắt ở địa phận A, mày đã giả vờ điên và không nói gì cả. Sau đó ở trại tạm giam ở thành phố B, mày đã giả vờ ốm và không chịu ăn. Kể từ ngày hôm đó đến giờ, mày vẫn chống lại chính quyền. Có ai ngờ rằng khi mày bị đi cải tạo, thì mày lại phạm tội nặng hơn? Thứ nhất, mày đã móc ngoặc với những người nước ngoài. Nhiều tháng trước khi có một người Mỹ nào đó đến Trung Quốc, mày đã biết rồi. Hơn nữa, người báo tin cho mày điều đó là một tội phạm hình sự bị truy nã trong đất nước chúng ta. Thứ hai, trong thời gian này ở trại cải tạo, mày đã chinh phục có không biết bao nhiêu người đi theo. Nếu chúng tao muốn giam giữ mày ở đây thêm vài năm nữa, chúng tao sợ rằng mày sẽ lên quyền kiểm soát cả trại cải tạo này. (Khi nghe thấy điều đó, Yun vui mừng hết sức và anh tôn vinh Chúa). Thứ ba, mày đã miêu tả nhà tù là một chỗ của CHÔNG GAI, một nghĩa địa mới. Mày đã mỉa mai chính sách cải tạo lao động của đảng, nói rằng một người có một quỷ, khi vào đó sẽ thành một người có bảy quỷ. Thứ tư, mày đã chống lại chính sách tôn giáo của đảng, và coi Hội Thánh được Đảng ủng hộ là một Hội Thánh giả, một con đĩ. Mày! Mày! Mày thật là táo tợn! Chúng tao sẽ cho mày biết một là một, hai là hai. Hãy đến và đánh nó đi!”

Đáp lại mệnh lệnh đó, có nhiều cai tù đã xông vào Yun đánh đập anh tàn nhẫn. Giống như anh đã viết trong một bài hát: “Những roi điện, gậy gộc, và roi da”. Anh bị đánh cho đến khi lòi thịt và những thương tích đầy trên thân thể anh.

Kết quả là Yun bị giam ở phòng biệt giam một trăm ngày, trong thời gian đó anh không được gặp một ai. Anh bị còng tay và phải đi qua bốn cổng sắt trước khi đến phòng biệt giam. Bên trong, chỉ có một ít ánh sáng. Cả chỗ đó chỉ khoảng hơn một mét vuông và sàn nhà rất ẩm ướt. Hàng năm liền không được sử dụng, nên đầy mùi mốc meo. Làm người ta muốn chóng mặt và buồn nôn. Yun không bao giờ thấy ánh sáng mặt trời ở đó. Đầu tiên, anh cảm thấy rất cô đơn. Sự đau đớn vì bị đánh đập và bị xiềng tay càng làm cho anh nản lòng. Có một ngày anh nghe thấy tiếng của một con chim hót. Anh lập tức đi tới cổng sắt. Trên đầu cửa là một cửa sổ nhỏ để lính canh có thể quan sát tù nhân bên trong. Nhưng qua khe hở của cửa sổ có song sắt, anh có thể nhìn ra ngoài. Anh thấy một cây nhỏ. Trên cành lá có nhiều con chim nhỏ đang líu lo, dang cánh vui đùa. Chúng được tự do!

Yun, nước mắt chảy xuống gương mặt, hỏi Chúa: “Chúa ơi, bao giờ, con sẽ được tự do như những con chim nhỏ này?” Sau đó, Lời Chúa đến mạnh mẽ trong anh: “Các anh chị em đã được kêu gọi đến sự đó [sự chịu khổ vì danh Chúa], vì Đấng Christ cũng đã chịu khổ cho các anh chị em, để lại cho các anh chị em một gương, để cho các anh chị em theo dấu chân Ngài.” (I Phi-e-rơ 2:21). Anh đã tụt xuống, quỳ gối, và giơ tay bị còng lên, kêu to: “Chúa ơi, con sẵn sàng. Con sẵn sàng đi theo dấu chân Ngài. Xin hãy để cho ý muốn Ngài được nên trong tôi tớ Ngài!” Sau đó, tấm lòng anh đã tràn ngập tình yêu, sự vui mừng, và bình an của Chúa nên anh không thể dừng được mà hát lên:

“Tình yêu Ngài đã chắp cánh cho con, xin hãy nhìn xuống và nghe bài hát trữ tình của con. Tình yêu ngọt ngào đã rung động tâm can con, con xin sẵn sàng làm một tù nhân và không muốn cao chạy xa bay.”

Yun không đọc Thánh Kinh trong những ngày qua và anh có một sự đói khát cùng cực nên anh đã cầu nguyện dốc đổ với Chúa xin một quyển Thánh Kinh. Vào một đêm anh đã có một giấc mơ, anh thấy còng tay anh mở ra và anh cầm một quyển Thánh Kinh và đọc. Ông linh mục mà anh đã kết bạn trong tù thì đứng bên ngoài, vui mừng tuyên bố: “Đức Chúa Jesus chiến thắng! Đức Chúa Jesus chiến thắng!” Sau đó, Yun tỉnh dậy và giơ tay ra, thấy còng tay đã rơi khỏi.

Vào buổi sáng hôm sau, lúc tám giờ sáng, một ông lãnh đạo trong trại đã dúi quyển Thánh Kinh qua cái cửa sổ song sắt và nói với anh: “Tuy anh có phạm tội, nhưng chúng tôi vẫn tôn trọng tín ngưỡng của anh. Này, đây là quyển Thánh Kinh của anh. Hãy nhận lấy!” Ha-lê-lu-gia! Điều đó thật không thể ngờ được! Ông lãnh đạo này vẫn thường căm ghét những người tin Chúa. Nếu ông ta bắt gặp một ai đọc Thánh Kinh, thì ông sẽ giật lấy và tịch thu. Nhưng Đức Chúa Trời đã dùng ông để đưa Thánh Kinh đến cho Yun. Anh khóc vì sung sướng. Anh cầm lấy quyển Thánh Kinh với sự kính trọng và giở ra Khải Huyền 22:20-21: “… Phải! Đức Chúa Jesus, xin hãy đến!” Sau đó, anh đã nghiên cứu Thánh Kinh ngày và đêm. Trong một thời gian ngắn chín mươi ngày, anh không những chỉ đọc toàn bộ Thánh Kinh Cựu Ước lẫn Tân Ước, nhưng anh đã học thuộc lòng tất cả các sách từ Hê-bơ-rơ đến Khải Huyền, tổng cộng là năm mươi lăm chương.

Chương 16: Cả Nhà Đều Kính Sợ Đức Chúa Trời (Công Vụ Các Sứ Đồ 10:2)

Chúa đã ban phước cho Yun bằng một gia đình kính sợ Đức Chúa Trời. Anh có một người mẹ giàu tình yêu và một người vợ chung thủy. Mẹ anh đang ở tuổi bảy mươi. Trong suốt cuộc đời bà đã gặp những hoạn nạn, đi qua nhiều gian khó, và đã trung tín phục vụ Chúa. Bà có tình yêu dồi dào đối với những người khác. Hơn thế nữa, bà cũng thường kiêng ăn và cầu nguyện. Hàng ngày, bà đã khóc than, cầu nguyện cho Hội Thánh và cho hàng vạn linh hồn hư mất.

Vợ của Yun, Deling, rất trẻ và xuất thân từ trong một gia đình không biết Chúa. Nhưng khi cô gặp Yun và gia đình anh, cô đã nhận biết Chúa. Khi họ vừa mới cưới, thậm chí Yun phải rời khỏi nhà để tránh khỏi sự lùng bắt của công an vì đã giảng Tin Lành. Nhưng cô đã đồng cảm với chồng và cầu nguyện ngày đêm cho anh. Khi Yun vừa bị bắt, cô đang có thai. Cô rất yếu về sức khoẻ, nhưng tất cả sinh hoạt trong gia đình đều đặt trách nhiệm lên cô.

Vào lúc đó, nhiều anh chị em bị bắt và Hội Thánh dường như chịu một sự đi xuống. Sau khi Yun bị bắt, có vài anh chị em đã đến giúp đỡ cô. Và khi Yun bị kết án là một tù nhân chính trị phản cách mạng, thì ngay cả những anh trai của cô đã tấn công cô. Tất cả những người bà con đều cắt đứt quan hệ với cô.

Mặc dù đã có thai nhiều tháng rồi, nhưng cô vẫn ra đồng làm việc mỗi ngày. Có một ngày cô rất mệt, và rất khó khăn vì công việc nhổ cỏ dại trong ruộng. Cô làm việc trong nhiều giờ đồng hồ nhưng ruộng lúa vẫn mênh mông bát ngát những cỏ dại. Cô không biết hoàn thành công việc này như thế nào. Bỗng nhiên, cô bị chóng mặt và ngất xỉu. Cô không còn đứng vững và quỵ xuống. Sau một lúc, cô tỉnh lại. Cô nhận thấy gia đình và bạn bè đã lìa bỏ cô, những hàng xóm thì mỉa mai và châm chọc cô, những anh trai của cô không tôn trọng cô. Cô cảm thấy thật cô đơn và tan nát trái tim, trong khi đang nằm trên cánh đồng lúa như vậy. Sau đó, cô nhìn lên trời và bắt đầu hát Thi Thiên 123.

“Tôi ngước mắt lên hướng cùng Ngài. Hỡi Đấng ngự trên các tầng trời…”

Cô hát cho đến khi bật khóc thành tiếng.

Trước khi anh Ming ở thành phố F đến một ít lâu, có vài anh chị em đến giúp đỡ Deling về công việc đồng áng. A-hong, đang sống ở làng bên, cũng đến giúp đỡ cô. Nhưng những anh của cô và các hàng xóm láng giềng đã nguyền rủa và mỉa mai cô. Hàng ngày, Deling rửa mặt bằng nước mắt và thời gian trôi qua một cách cay đắng. Dẫu sao, tay Chúa ở trên cô và làm mạnh mẽ lòng cô bằng câu Thánh Kinh: “Chúng tôi bị ép đủ cách, nhưng không tuyệt vọng; bị cùng đường nhưng không ngã lòng; bị bách hại, nhưng không bị bỏ quên; bị ném xuống, nhưng không bị hủy diệt.” (II Cô-rinh-tô 4:8-9).

Sau đó, Deling nhận được một lá thư của Yun gửi bí mật từ trong tù. Nó làm cho cô được an ủi, vì trong lá thư anh đã viết bài hát:

“Thân thể dù già nua, những bà con, bạn bè có thể ruồng bỏ. Con đường chúng ta đi xuống có thể còn khó khăn hơn, nhưng bạn hãy vâng theo đường lối Chúa.”

Sức của cô đã được đổi mới và cô quyết định trong lòng, cùng mang thập tự giá với chồng mình.

Vì có nhiều gian nan trong thời gian mang thai nên đứa trẻ đã chào đời sớm hơn hai tháng. Vào buổi tối, trước khi chính quyền địa phương định bắt ép cô phải vào bệnh viện để nạo đứa con ra. Cùng với mẹ chồng và một vài anh chị em con cái Chúa khác, họ đã dốc đổ kêu cầu Đức Chúa Trời xin làm một phép lạ… Và đứa trẻ đã được ra đời.

Vào ngày sinh nở, ngày mười tám Tháng Tư, năm 1984. Cô vừa buồn lẫn vui. Vui mừng vì đã mẹ tròn con vuông, nhưng lòng cô nhớ thương chồng. Sao anh không được ở đây để chia sẻ với cô giờ phút quý giá này. Cô nghĩ: “Đứa con sẽ được cha nó đặt tên cho!”

Vào buổi chiều hôm đó, Yun có một giấc mơ. Anh thấy Deling ẵm một đứa con trai và đi lại phía anh, nói: “Anh hãy đặt tên cho con!” Yun ẵm đứa con và nói: “Tên của nó sẽ là I-sác!” Vào ngày hôm sau, khi một người bà con đến nói với Yun về tin vui, thì anh đã có một tên cho con. Một trong những người lính canh nói với anh: “Ê, Yun! Vợ mày đã sinh một con trai, bây giờ họ đang chúc mừng và họ nói, hãy viết tên con ra một mảnh giấy đưa cho họ.”

Họ đưa cho anh một mảnh giấy và bút chì. Anh viết tên con là “I-sác”. Yun viết thêm những lời này cho con: “Khi con được sinh ra, bố của con đang ở trong tù vì cớ Đức Chúa Jesus. Bố không biết sẽ còn sống để gặp con hay không. Tất cả các bậc bố mẹ đều mong muốn cho con mình trở thành cái gì đó. Tuy nhiên, bố của con chỉ có một nguyện vọng, rằng con sẽ bước theo Đức Chúa Jesus và giống như tên của con “I-sác”. Con sẽ trở thành một con người của đức tin và của sự vâng lời.”

Chẳng mấy chốc, cánh đồng lúa đã chín vàng. Các anh chị em giúp đỡ gia đình Yun để thu hoạch. Họ để lại một phần đã gặt xong, nhưng chưa đưa về, vẫn để ngoài đồng. Buổi chiều hôm đó, thình lình thời tiết chuyển mưa, sấm chớp mây đen kéo đến.

Deling vừa sinh xong và không thể xuống khỏi giường được. Nên chỉ còn lại mẹ già của Yun phải đem lúa thóc vào. Bà mẹ kéo chiếc xe, đôi chân bé nhỏ của bà lảo đảo, đôi tay gầy guộc run rẩy vì không có sức. Thế rồi, một điều không tránh khỏi đã xảy ra, chiếc xe bị đổ nghiêng và lăn xuống một cái hố. Mẹ của Yun bị gãy tay trái và bị thương nặng bên hông. Đó là những hoạn nạn mà Deling và mẹ chồng phải trải qua trong những ngày Yun bị tù. Dẫu vậy, Chúa canh phòng trên họ, và lòng họ luôn luôn đầy dẫy một niềm vui thiên thượng.

Chương 17: Hãy Đi Vào, Chiếm Lấy Xứ Mà Đấng Tự Hữu Hằng Hữu, Thiên Chúa của Các Ngươi, Ban cho Các Ngươi Chiếm Lấy (Giô-suê 1:11)

Vào một ngày, năm 1987, những cán bộ trại cải tạo đã nói với Yun là anh được chuyển về thành phố B. Những anh em bạn tù nghĩ rằng, chắc chắn anh bị đưa về trung tâm tạm giam để bị tra tấn cực hình. Bởi vì công an đã tìm ra những bằng chứng chống lại Yun. Cho nên, Yun đinh ninh là sẽ có nhiều sự đau đớn xảy đến. Hơn nữa, anh đã quyết định trong lòng, không lưỡng lự nếu phải làm một lễ vật hy sinh. Anh sẵn sàng dâng đời sống mình cho Chúa và vui mừng chịu đổ huyết mình.

Vào ngày hôm sau, một chiếc xe công an an ninh ở B đến để đưa anh đi. Sáng hôm sau, anh gặp nhiều sĩ quan công an, những cán bộ đảng, những người lãnh đạo trong mặt trận thống nhất, và người đứng đầu bộ phận về những vấn đề tôn giáo của thành phố B.

Bằng một giọng trịnh trọng, ông thủ trưởng công an an ninh nói: “Anh phải biết là vấn đề của anh rất nghiêm trọng. Anh sẽ phải bị trừng trị thích đáng. Hơn nữa, nếu chúng tôi có giết anh, thì sự lỳ lợm của anh cũng không thay đổi, chúng tôi đã quyết định cho phép anh về nhà. Ngoài ra, chúng tôi muốn thông báo cho anh rằng:

  1. Anh bị tước đoạt mọi quyền hạn và anh không thể cất bỏ “cái mũ” tù nhân chính trị được. Anh phải bị kiểm soát và theo dõi của chính quyền địa phương.
  2. Anh phải ra trình diện ở công an địa phương hàng tháng.
  3. Anh phải đi Hội Thánh Ba Độc Lập đã được công nhận và được nhà nước ủng hộ.

Yun trả lời: “Kính thưa vị lãnh đạo, vì tôi bị tước đoạt mọi quyền công dân, làm sao tôi lại có thể được đến thăm tổ chức vĩ đại và được Nhà nước ủng hộ này? Điều đó không mâu thuẫn hay sao?”

Ông thủ trưởng công an an ninh im bặt vì giận dữ: “Yun, anh thật là ghê gớm. Chúng tôi phải nghiêm khắc cảnh cáo anh, khi anh về nhà, nếu anh xúi giục những tín đồ chống lại chính sách tôn giáo của đảng, thì anh sẽ phải gánh lấy hậu quả!”

Không lâu sau khi Yun được thả ra, anh được công an tỉnh, những sĩ quan công an quận và địa phương đến thăm. Trong làng, nơi Yun sống, có một buổi họp lớn được tổ chức, dành cho tất cả các cán bộ và lực lượng dân quân. Trong buổi họp, họ nêu lên chính sách tôn giáo của đảng đã được quần chúng ủng hộ ra sao. Họ quy Đạo Chúa trước kia là một công cụ được nước ngoài sử dụng để xâm lược Trung Quốc và để đầu độc dân chúng. Họ cảnh cáo rằng: “Chỉ Hội Thánh Ba Độc Lập được công nhận và được chính phủ ủng hộ.”

Họ nhắc lại rằng, tất cả các buổi nhóm tư gia đều là bất hợp pháp. Tất cả các cán bộ và dân quân tự vệ phải trừng trị những người tham gia những buổi nhóm họp như thế. Vào cuối phiên họp, công an bộ nội vụ tuyên bố:

  1. Yun vẫn còn là một tù nhân chính trị và bị tước đoạt mọi quyền công dân.
  2. Chính quyền địa phương, các cán bộ, những dân quân tự vệ và tất cả quần chúng đều có quyền kiểm soát những hoạt động của Yun.
  3. Yun phải lên trình diện ở công an địa phương.
  4. Yun không được tự động rời khỏi làng.
  5. Nếu có một người không quen biết nào có liên lạc với Yun, Yun phải lập tức bị trói và bị đưa đi điều tra.

Nhưng làm sao người ta có thể ngăn chặn được công việc của Chúa? Chẳng bao lâu, sau khi Yun trở về nhà, công việc của Đức Thánh Linh bắt đầu thịnh vượng ở làng anh. Yun được đầy dẫy thánh linh và nhiều dấu kỳ phép lạ đã đi theo anh. Những hàng xóm láng giềng đã châm chọc Deling trước kia, bây giờ lại tin Đức Chúa Jesus. Họ thật sự hối tiếc vì đã bắt bớ gia đình Yun. Các anh chị em vợ của Yun đã ăn năn. Ngọn lửa Tin Lành đã lan tràn khắp làng. Y như Yun đã nói vào buổi tối anh bị bắt, là anh sống ở “làng Tin Lành”. Trong các làng lân cận, con số tín đồ tăng lên trông thấy. Hội Thánh ở thành phố B kinh nghiệm được một cơn phấn hưng lớn. Ha-lê-lu-gia! Sự vinh quang thuộc về Chúa!

Đối với Yun, bây giờ cũng như trước kia, khi bị bắt, anh không thể nào quy phục Hội Thánh Ba Độc Lập. Theo những tiêu chuẩn Thánh Kinh, thì nó hoàn toàn không phải là Hội Thánh. Chính phủ chỉ tạo nên mô hình Hội Thánh này để kiểm soát Cơ-đốc nhân và tuyên truyền sự giáo dục xã hội chủ nghĩa trong vòng những Cơ-đốc nhân. Ngoài ra, các người chăn và những thành viên của Hội Thánh bị hạn chế rất nhiều trong công tác phục vụ. Vậy nên, Yun và bạn bè anh không thể chấp nhận được mọi điều đó. Tuy vậy, Yun và những bạn đồng nghiệp của anh trước kia cũng như bây giờ đều nhận thấy rằng, ở hạ tầng cơ sở của Hội Thánh Ba Độc Lập có nhiều Cơ-đốc nhân thành thật, tận tụy và trung thực với Tin Lành. Đó là một sự kiện vẫn tiếp tục tồn tại.

Tầng lớp lãnh đạo của Hội Thánh Ba Độc Lập bị các cán bộ đảng kiểm soát. Nhiều người trong số họ là những nhà Thần học hết sức tự do, thậm chí hầu như không quan tâm đến sự truyền bá Tin Lành ở trong khía cạnh giúp đỡ nhân đạo và những công tác xã hội. Vài người trong số họ thậm chí là những người vô thần. Còn những người khác lại cho rằng, giáo lý của Đạo Chúa phải làm sao thích hợp với sự giáo dục của chủ nghĩa xã hội.

Yun không thể bị nhụt chí vì những sự đe dọa và cảnh cáo. Một thời gian sau, anh đã tiếp tục lên đường, giảng dạy, và rao truyền Tin Lành như xưa. Sự phóng thích của anh khỏi trại cải tạo xẩy ra trong một thời điểm quyết định cho Hội Thánh tư gia tại Trung Quốc.

Đức Chúa Trời đã sử dụng những con người chất phác, vô học thức để giảng lời Ngài và xây dựng vương quốc của Ngài. Ở đó, không còn chỗ cho những nhà Thần học khô khan và có trình độ cao.

Ngọn lửa từ Đức Thánh Linh lan toả nhanh chóng khắp các tỉnh thành. Mọi người đã kinh nghiệm được vô số những dấu kỳ phép lạ. Những người điếc nghe được, những người mù thấy được, những người bệnh và đau yếu được đưa đến các buổi nhóm; và thỉnh thoảng có đến ba nghìn người nhóm họp. Yun và những cộng tác viên của anh đã đặt tay trên người bệnh và họ được lành. Quyền phép của Tin Lành trở thành chủ đề của những cuộc nói chuyện trong các làng mạc thôn quê. Công an an ninh bất lực đối với quyền phép của Đức Chúa Trời.

Yun tìm thăm gia đình của Hoàng. Khi bố mẹ của Hoàng trông thấy anh, họ đã ra ôm chầm lấy anh và kêu lên: “Chúng tôi đã nhận được “huyết tâm thư” của nó, nó nói về sự giúp đỡ của anh đối với nó trong tù. Và chúng tôi biết rằng, khi nó ở tù, anh rất yêu nó. Anh là vị cứu tinh của con trai tôi và của toàn thể gia đình chúng tôi. Tuy con trai chúng tôi đã chết, kể từ giờ phút này, anh sẽ trở thành con trai chúng tôi.”

Yun nói: “Tuy con trai của hai bác đã chết, linh hồn em vẫn sống, em đã đi về yên nghỉ với Đức Chúa Jesus. Tương tự như vậy, những lời em ghi trong thư cho hai bác không chết. Những lời cầu nguyện của em vẫn sống. Lý do chính ngày hôm nay cháu đến nói cho hai bác về nguyện vọng cuối cùng của con trai của hai bác. Em nói, hai bác phải tin Đức Chúa Jesus!”

Bố mẹ Hoàng cho biết rằng, điều đó sẽ rất khó khăn cho họ, bởi vì họ là những cán bộ cấp cao. Yun đã dành nhiều thời gian nói chuyện với họ và cuối cùng, họ đã dúi vài trăm đô-la vào túi áo anh. Yun lấy tiền ra và để trên đĩa cốc chè.

Anh nói: “Cháu không muốn tiền của hai bác, nhưng muốn linh hồn của hai bác. Bây giờ trong danh thánh của Đức Chúa Jesus ở Na-xa-rét, cháu nói với hai bác, hãy quỳ xuống và tiếp nhận Đức Chúa Jesus làm cứu Chúa!”

Những lời của anh tuôn trào như một dòng thác mạnh mẽ. Lập tức bố mẹ Hoàng đã quỳ gối xuống và trong nước mắt đã xưng tội trước Chúa. Kể từ ngày đó, họ trở thành môn đệ của Chúa.

Khi anh từ giã họ và đi bách bộ trên con đường, Yun nghĩ rằng, mình đang nghe xung quanh có muôn vàn tiếng nói rằng: “Hãy lại đây! Hãy đưa ngọn lửa phấn hưng đến làng của chúng tôi!” Phải, anh cần phải nhận ân điển đầy tràn của Đức Chúa Trời, để đưa quyền phép chữa lành của Đức Chúa Jesus phục sinh đến cứu hàng triệu linh hồn. Anh cần phải đi đến mỗi tỉnh thành, huyện lỵ, mỗi núi rừng, hải đảo, và mỗi chi tộc. Yun trung kiên đi tới vì Chúa của mình.

Chương 18: Nhiệm Vụ Mới: Một Công Cụ cho Sự Hiệp Nhất

Vào những năm chín mươi, tuy Yun phải ra vào nhà tù nhiều lần và một lần nữa lại phải chịu kết án tù, nhưng anh đã đóng một vai trò quan trọng trong sự xây dựng Hội Thánh ở Trung Quốc. Cứ mỗi lần anh bị vào tù, thì đều bị tra tấn cực hình. Trên hai mươi năm qua, chính quyền không làm sao đánh gục con người có dáng người nhỏ nhắn này được. Họ coi anh là một mối nguy cơ đe dọa toàn bộ hệ thống cộng sản chủ nghĩa. Và họ bắt bớ anh giống như anh là một trong những tên tội phạm hình sự nguy hiểm nhất ở Trung Quốc, bởi vì anh thuộc trong số những người lãnh đạo Hội Thánh tư gia.

Vào năm 1992, Đức Chúa Trời ban cho anh một nhiệm vụ mới. Một nhiệm vụ mà anh không thấy mình có khả năng chút nào và chắc chắn đó là điều anh không mong đợi. Ngược lại, anh thấy bản thân mình hoàn toàn không tương xứng với nhiệm vụ đã đặt cho mình. Đức Chúa Trời nói với anh và yêu cầu anh hãy đưa các mạng lưới Hội Thánh tư gia khác nhau đến sự hiệp nhất. Anh cần tìm những người lãnh đạo có cùng khải tượng với mình.

Khi Đức Chúa Trời nói với Yun về điều đó, anh bắt đầu cưỡng lại và than thở với Chúa. Chắc chắn là Đức Chúa Trời có thể tìm một ai khác hơn để thực hiện nhiệm vụ đó. Yun biết rằng, các trào lưu Hội Thánh tư gia khác nhau ở Trung Quốc nhìn nhau không chút thiện cảm chút nào. Thiết lập sự thống nhất giữa các tổ chức không phải là một việc dễ dàng, và anh lo sợ trước điều đó. Những người lãnh đạo đã từng một thời gian dài nói tiêu cực về nhau và hoàn toàn khác ý kiến ở trong một số điểm cơ bản về giáo lý. Càng làm cho vấn đề trở nên trầm trọng hơn là các Hội Thánh tư gia đều xét đoán lẫn nhau là những tà giáo. Yun biết tất cả những điều đó và cảm thấy mình không kham nổi nhiệm vụ này, nên cũng giống như Môi-se ở bụi gai cháy, anh đã đến kêu than lên với Chúa.

 Đang trong khi kêu nài và than thở, Đức Chúa Trời đã ngắt lời anh và nói: “Ngươi không phải là sự lựa chọn đầu tiên của Ta.” Thình lình Đức Chúa Trời khiến cho Yun chú ý. Ngài cho Yun biết rằng, trong quá khứ, Ngài đã muốn giao cho những người khác nhiệm vụ này, nhưng họ không sẵn sàng làm theo, nên Đức Chúa Trời đã tìm người khác. Sự gặp gỡ đó đã làm thay đổi hoàn toàn thái độ của Yun. Anh bắt đầu bằng cách đi đến những người lãnh đạo khác nhau và mời họ hãy đến làm hoà với nhau. Vào thời gian đó, Yun đã kết ước với Chúa, đó là anh sẽ không ăn thịt và trứng, cho đến khi sự hiệp nhất của các người lãnh đạo trong Hội Thánh tư gia được thiết lập. Một trong những người lãnh đạo đã nhận thấy điều đó và hỏi Yun, tại sao anh không ăn. Yun đã giải thích lý do của mình. Qua đó, người lãnh đạo này cũng quyết định làm giống như vậy. Trong thời gian tiếp theo, Yun không mệt mỏi trong sự liên lạc với những người lãnh đạo khác của Hội Thánh tư gia và cuối cùng anh đã đạt được điều mong muốn. Tất cả họ đã họp lại với nhau. Với sự hiệp nhất tiến triển trong họ, cuối cùng đã đi đến điểm mà tất cả họ đều nhất trí. Họ bắt đầu giảng ở những Hội Thánh tư gia khác nhau, hát những bài hát của các Hội Thánh khác, và làm việc chung nhau ở trên những mức độ và bình diện khác nhau. Theo thời gian, những ấn tượng và định kiến biến mất và sự hiệp nhất càng vững chãi hơn. Sau này, họ đã thống nhất với nhau, đặt cho mình tên gọi theo như trong Ê-sai 49:12 là “Hiệp Hội Si-nim (Sinim Fellowship)! “Này, những kẻ này sẽ đến từ nơi xa; kìa, những kẻ kia sẽ đến từ phương bắc, những kẻ nọ từ phương tây, và những kẻ khác từ phần đất Si-nim. [Si-nim = nơi hẻo lánh trên đất. Nghĩa đen là những gai góc.]” Nhiều người nghiên cứu Thánh Kinh đều cho rằng, tên “Si-nim” là tên gọi xa xưa của Trung Quốc. Những người lãnh đạo đã chọn Yun làm chủ tịch và người phát ngôn cho các Hội Thánh tư gia khác nhau của “Hiệp Hội Si-nim”. Bắt đầu thiên niên kỷ này, hội này có chừng năm mươi đến bảy mươi triệu tín đồ. Mỗi ngày, có chừng hai mươi đến ba mươi nghìn người ở Trung Quốc tin nhận Đức Chúa Jesus Christ làm Đấng Cứu Rỗi của mình, TƯƠNG ĐƯƠNG VỚI TÁM ĐẾN MƯỜI TRIỆU CON CÁI CHÚA MỚI MỖI NĂM. Khi các giáo sĩ rời khỏi Trung Quốc cách đây năm mươi năm chỉ có khoảng 850.000 tín đồ Tin Lành ở Trung Quốc. Điều đáng kinh ngạc nhất, đó là sự phát triển phi thường nhất lại xảy ra trong một quốc gia cộng sản vô thần lớn nhất thế giới, trong một nhà nước mà tất cả các công dân đều được thuyết phục rằng, Đức Chúa Trời chết rồi. Trước đây hai mươi lăm năm, báo chí tây phương đã đưa tin rằng, Đạo Chúa ở Trung Quốc đã chết, và bà quả phụ Mao khoe khoang với những khách tham quan nước ngoài rằng, đức tin Cơ-đốc ở Trung Quốc chẳng mấy chốc sẽ chỉ còn tìm thấy trong viện bảo tàng.

Chương 19: Cánh Cổng Sắt Mở Ra

Sự hiệp nhất gần đây trong vòng những Hội Thánh tư gia đã nhanh chóng dẫn đến một sức mạnh phi thường. Những người lãnh đạo đã suy nghĩ rằng, làm sao họ có thể ứng dụng khải tượng đó vào thực tế được. Vào Tháng Ba, năm 1997, công an Bộ nội vụ đã bắt được tin là những người lãnh đạo của Hội Thánh tư gia hiệp lại ở trong những cuộc họp với cái tên gọi là “những cuộc bàn thảo đi đến hiệp nhất”. Đảng cộng sản đã hiểu sai đó là những cuộc hội đàm của cả Hội Thánh để lập một đảng đối lập, làm một sự đe doạ đối với đất nước. Do sợ hãi, những Cơ-đốc nhân có thể gây phân rẽ, làm suy yếu hệ thống cộng sản, nên công an bộ nội vụ đã ra tay.

Những người lãnh đạo đã họp lại trong tầng một của một toà nhà lớn, khi những công an an ninh đã ập đến không báo trước. Đã quen thuộc với những năm tháng phải chạy trốn, Yun tìm cách chạy trốn lần này và đã nhảy từ tầng một đó xuống. Nhưng đó là một tầng cao, nên anh đã bị chấn thương ở hai chân. Công an đã bắt trói anh và tám người lãnh đạo khác. Bởi vì họ biết quá khứ của Yun, họ hỏi anh có tìm cách chạy trốn nữa không? Yun trả lời: “Nếu Chúa cho tôi cơ hội, thì tôi sẽ chạy trốn.” Câu trả lời của anh đã làm cho viên công an giận điên người và đã lôi anh lên nóc một toà nhà cao tầng. Sau đó, anh ta đã đẩy Yun vào góc của một mái nhà và nói với anh rằng, bây giờ là cơ hội chạy trốn: “Nào, hãy nhảy đi!” Viên công an trợn trừng mắt. Nhưng Yun trả lời, rằng lần này anh sẽ không chạy trốn, bởi vì Chúa không ban lệnh cho anh. Chính quyền đã quyết rằng, nhất định lần này phải bẻ gãy ý chí và sự ngoan cố của Yun. Để đề phòng Yun vượt ngục, các anh công an đã lấy một loại búa tạ và đập ống chân của anh, chỉ còn cơ và gân giữ chân anh lại với nhau. Kể từ lúc đó, Yun không thể nào đi đứng được. Lại một lần nữa, anh bị đau đớn quá độ. Bây giờ, “người công dân thiên quốc” là một người tàn phế, mà người ta muốn để cho anh lê lết trong xà lim cho đến chết thì thôi. Ít ra thì qua đó, anh được thoát khỏi sự đau đớn và khổ ải. Có lẽ đó là suy nghĩ duy nhất của anh về tương lai. Mặc dù lúc đó anh mới ba mươi chín tuổi, anh sẽ không bao giờ được ở cùng vợ con nữa.

Bây giờ thì rõ ràng là cả những người lãnh đạo Hội Thánh tư gia khác cũng phải chịu đau đớn. Công an bộ nội vụ muốn tiêu trừ vĩnh viễn những hoạt động làm mất trật tự an ninh này, là những thành phần không tôn trọng luật pháp. Tất cả những người bị bắt đều bị đưa đến một nhà tù được canh phòng cẩn mật nhất Trung Quốc, nên việc vượt ngục hoàn toàn không thể được. Một người anh em được lệnh phải đưa Yun đi vệ sinh và lên phòng khảo cung. Yun đã quá nhiều sự đau đớn, và họ lại không thôi hành hạ anh. Họ không những cương quyết nhốt anh sau chấn song, mà còn muốn xoá sổ anh hoàn toàn. Một ngày kia, anh đang ở phòng tắm, anh có điều kiện nói chuyện với những người lãnh đạo Cơ-đốc nhân khác. Người anh em đó đã nói nhỏ với Yun: “Anh là người cần phải vượt ngục.” Nhưng Yun đáp lại: “Chúng ta đang ở trong tù và hãy nhìn vào đôi chân của tôi đây. Tôi không thể đi được nữa. Ở đây có quá nhiều cổng sắt, làm sao tôi có thể ra ngoài được?” Một vài ngày sau, Yun lại gặp lại người anh em đó, lần này, người anh em đó cũng lại nói rằng, anh cần phải vượt ngục. Yun lại nhắc cho anh ta biết rằng, mình không thể đi đứng được và thay vào đó anh ta hãy vượt ngục thế chỗ của anh, vì chưa bị thương. Nhưng người anh em vẫn một mực nhắc lại: “Anh có thể đi được, anh có thể vượt ngục được.”

Trong đêm đó, Yun không thể ngủ được vì sự đau đớn trong đôi chân. Anh đặt đôi nạng xuống đất, đưa hai chân lên, để giảm sự đau nhức. Tất cả những gì anh còn có thể làm được, đó là kêu than với Chúa về sự khốn nạn và tuyệt vọng của mình: “Ôi Chúa ơi, con lại phải bị tù lần nữa. Xương chân con đã bị đánh dập. Trông giống như là đến cả Ngài cũng không làm gì cho con được nữa. Ngài đã ra lệnh cho con hãy đem Tin Lành đi về phía tây và đi về phía nam, nhưng làm sao con có thể đi được bây giờ? Con nằm ở đây và không thể đi được. Con có phải là một thằng ngốc không?” Anh đã kêu lên với Chúa như vậy. Nhưng Đức Chúa Trời đã chứng tỏ cho Yun về sự thành tín của Ngài và nói với anh những lời sau: “Đây là giờ của sự giải phóng của con.” Và trong khi Yun còn đang thức, anh thấy trong khải tượng, Deling, vợ anh vào trong phòng giam. Cô đã băng bó cẩn thận cho vết thương. Sau khi thấy hình ảnh đó, anh gõ cửa xin cho được đến nhà tắm. Ở đó, anh lại gặp người anh em đã hai lần yêu cầu anh phải vượt ngục. Anh nói với Yun lần thứ ba: “Bây giờ là thời cơ, hãy trốn đi!” Đó là vào tám giờ sáng ngày năm Tháng Năm, năm 1997. Lúc đó đang thay đổi phiên gác, và trong cả ngày, đây là lúc bận rộn nhất. Vào lúc đó, có nhiều lính canh hơn cả so với bất kỳ thời điểm nào trong ngày. Yun được đưa trở về phòng giam. Cánh cửa đóng lại đằng sau anh. Sau đó Yun quyết định rằng giờ vượt ngục đã đến, mặc dù trông có vẻ như là vô vọng. Trong đức tin và sự vâng lời, anh dám thử những bước đi đầu tiên. Thì bỗng nhiên, quyền năng của Đức Chúa Trời đã tuôn tràn qua thân thể, anh đứng lên, và anh có thể đi được! Nên anh đã đi về phía cánh cửa phòng giam đang mở. Trong đức tin, anh đi những bước đầu tiên vào sự tự do. Anh ngạc nhiên là tất cả những cánh cửa khác cũng mở ra khi anh đến gần. Nhiều định luật tự nhiên đã đồng thời bị vô tác dụng. Khi đi đến cánh cổng chính, dẫn ra sân nhà tù, anh thấy một anh em khác đi lại phía anh. Cánh cửa giữa họ chỉ có thể do một lính gác bấm nút mới mở ra được thôi. Một phép lạ, là Yun có thể đi tiếp tục và không bị phát hiện, trong khi cùng lúc đó, người anh em kia đi vào nhà tù. Người anh em đó đã kinh hoàng khi nhìn thấy Yun đi được, và nói với anh: “Tôi vừa đi vào.” Yun đáp lại: “Tôi vừa đi ra.”

Về sau, người anh em ấy còn thuật lại chi tiết về sự kiện kỳ lạ, mà anh đã chứng kiến bằng sự quan sát của mình: “Tôi đi dọc theo nhà tù, sau khi bị một vài lính canh kiểm soát. Điều đáng ngạc nhiên và thật kinh hoàng là tôi nhìn thấy Yun. Tôi biết là anh bị đánh dập ống chân nên hoàn toàn tàn tật. Nhưng bây giờ, tôi nhìn thấy anh đi vội vã về phía tôi. Không lưỡng lự, anh cứ bước ra cổng và đi qua. Người lính đã khám tôi, không hề nhận ra anh. Sau khi trở lại phòng giam, tôi đã leo lên song sắt chỗ cửa sổ phía trên, từ đó, tôi có thể nhìn thấy bao quát sân nhà tù. Tôi còn thấy Yun bước đi thoăn thoắt qua sân, về phía cổng chính và ra ngoài. Từ chỗ tôi, tôi có thể thấy có khoảng độ ba mươi lính canh đứng ở ngoài sân, nhưng không ai nhận ra sự trốn thoát của Yun”.

Ngoài nhà tù có một chiếc ta-xi đậu bên đường. Yun đến đó, lên xe, không ai để ý đến bộ quần áo tù nhân, người lái xe hầu như không để ý gì đến điều đó. Ông chỉ thấy là Yun đang rất vội vã, và hỏi anh đi về đâu. Yun nhớ đến một gia đình con cái Chúa. Và xin người tài xế lái xe đến đó. Sau khi đến đó, Yun xuống xe, vào nhà và nhờ họ trả tiền cho ông tài xế. Khi anh gõ cửa nhà người bạn, thì người đó hoảng sợ, không dám mở cho anh. Họ hỏi có phải anh được thả ra không. Anh trả lời, Cha thiên thượng chúng ta đã ra lệnh cho tôi hôm nay hãy ra khỏi nhà tù, nhưng bây giờ tôi cần tiền để trả cho người tài xế ta-xi. Họ đưa tiền cho anh, và anh trả cho ông tài xế. Ông ta nhìn vào anh kinh ngạc, dường như là ông không nhận ra điều gì. Ông đã nhún vai, không tài nào hiểu nổi, tại sao trên đời này lại có người tự nhiên đưa cho mình tiền. Ông không hề nhớ được rằng, Yun là người khách vừa rồi của mình. Đức Chúa Trời đã làm cho người tài xế quên đi những chuyện vừa rồi. Nên, dù cho có hỏi cung theo kiểu gì đi nữa, công an cũng không thể nào moi tin tức gì từ ông. Còn có một chuỗi sự kiện lạ thường đi kèm trong chuyến vượt ngục của Yun. Có những người, bằng cách nào đó đã được nhìn thấy, về sau đã xác nhận và dâng sự vinh quang lên Đức Chúa Trời, vì thấy Ngài đã tổ chức một chuyến vượt ngục không ai có thể dùng lý trí mà hiểu được.

Người vợ trong gia đình mà Yun đến đó sau khi vượt ngục, đã kiêng ăn và cầu nguyện một tuần trước đó, cầu xin sự giải phóng cho Yun. Rõ ràng là Chúa đã nói cho người phụ nữ này biết trước, rằng Yun sắp được tự do và sau đó sẽ đến nhà bà. Đồng thời bà cũng được sự thôi thúc chuẩn bị cho Yun một chỗ trốn, lương thực, và Thánh Kinh.

Chỉ một chốc sau khi Yun vượt ngục, cả nhà tù đã báo động. Lại một lần nữa, “người công dân thiên quốc”, một trong những kẻ bị truy nã hàng đầu ở Trung Quốc, lại có thể vượt ngục khỏi một nhà tù đại kiên cố. Nhiều người đã bị mất thể diện, đặc biệt công an nhà tù. Khi Yun đi đến chỗ ẩn náu, thì ở trong thành phố có một cơn mưa bão càn quét qua thành phố, nhiều người làm chứng lại rằng, đó là trận mưa dữ dội nhất ở khu vực này, kể từ khi cha sinh mẹ đẻ đến nay. Kết quả là có một cơn lụt làm tê liệt toàn bộ hệ thống điện thoại truyền thông. Nên công an và ban lãnh đạo nhà tù đã bị đánh mất những giây phút thật quý giá đối với họ và cả đối với Yun. Đến khi công an có thể chặn các tuyến đường giao thông, thì Yun đã đến nơi an toàn. Nhiều năm trước đó Đức Chúa Trời đã cho anh biết rằng, những biến cố như vậy sẽ xảy đến với anh. Nhờ Lời và Thần của Ngài mà anh đã chuẩn bị cho giờ phút này. Mười ba năm trước, Đức Chúa Trời đã nói cho Yun trong nhà tù: “Những cánh cổng sắt sẽ mở ra trước mặt con, và con sẽ được tự do.” Đức Chúa Trời đã giữ Lời của Ngài. Khi Yun đi qua cánh cổng sắt đầu tiên, anh còn chưa chắc chắn, rất có thể bị phát hiện, tệ hơn nữa, có thể bị bắn chết. Nếu họ bắt được anh, thì chắc chắn mười năm tù tiếp theo đang đợi anh. Nhưng anh hành động, vâng theo những gì Đức Chúa Trời bảo anh. Từ cánh cửa này đến cánh cửa khác đã mở ra, và bây giờ, anh được tự do!

Xem tiếp: Hoa Huệ Giữa Chông Gai – 05 (f)
https://timhieutinlanh.com/hoa-hue-giua-chong-gai-05-f/