03_Những Lẽ Thật về Sự Cầu Thay

4,027 views

Bài Giảng Trong Ngày Kiêng Ăn và Cầu Nguyện
Cho Hội Thánh Việt Nam và Dân Tộc Việt Nam
29/6/2013 – Toronto – Canada

Những Lẽ Thật về Sự Cầu Thay

Huỳnh Christian Timothy
Huỳnh Christian Priscilla

Bấm vào nút “play” ► để nghe:

Bấm vào nối mạng dưới đây để tải xuống bài viết này:
http://www.mediafire.com/download/a34ka6s44sfgo9j/03_NhungLeThatVeSuCauThay.pdf

Bấm vào nối mạng dưới đây để tải xuống mp3 bài này:
http://timhieutinlanh.opendrive.com/files/NV8xMzAyNjEwOV9NR2M1Rl8wYWJk/03_NhungLeThatVeSuCauThay.mp3

Trong Hội Thánh của Chúa, mỗi một con dân Chúa là một thầy tế lễ của Đức Chúa Trời, bất kể người đó là ai, ở trong tầng lớp xã hội nào, thuộc về dân tộc nào, phái tính nào:

“Tại đây không còn phân biệt người Hy-lạp hoặc người Do-thái, người chịu cắt bì hoặc người không chịu cắt bì, người dã man hoặc người Sy-the, người tôi mọi hoặc người tự chủ; nhưng Đấng Christ là mọi sự và trong mọi sự” (Cô-lô-se 3:11).

“Nhưng anh em là dòng giống được lựa chọn, là chức thầy tế lễ nhà vua, là dân thánh là dân thuộc về Ngài, hầu cho anh em rao giảng nhân đức của Đấng đã gọi anh em ra khỏi nơi tối tăm, đến nơi sáng láng lạ lùng của Ngài” (I Phi-e-rơ 2:9)

“Đấng yêu thương chúng ta: đã rửa sạch tội lỗi chúng ta trong máu Ngài, đã lập chúng ta làm những vua và những thầy tế lễ cho Đức Chúa Trời Ngài và Cha Ngài – Nguyện sự vinh quang và quyền thế thuộc về Ngài, cho đến đời đời. A-men!” (Khải Huyền 1:6).

Bổn phận của thầy tế lễ Thời Tân Ước là:

  • Dâng thân thể của mình làm của lễ sống và thánh lên Đức Chúa Trời: “Vậy, hỡi anh em, tôi lấy sự thương xót của Đức Chúa Trời khuyên anh em dâng thân thể mình làm của lễ sống và thánh, đẹp lòng Đức Chúa Trời, ấy là sự thờ phượng phải lẽ của anh em” (Rô-ma 12:1).

  • Dâng các tế lễ khác lên Đức Chúa Trời: “Vậy, hãy cậy Đức Chúa Jesus mà hằng dâng tế lễ bằng lời tôn vinh cho Đức Chúa Trời, nghĩa là bông trái của môi miếng xưng danh Ngài ra. Chớ quên việc lành và lòng bố thí, vì sự tế lễ dường ấy đẹp lòng Đức Chúa Trời” (Hê-bơ-rơ 13:15-16).

  • Và cầu thay cho mọi người: “Vậy, trước hết mọi sự ta dặn rằng, phải khẩn nguyện, cầu xin, kêu van, tạ ơn cho mọi người, cho các vua, cho hết thảy các bậc cầm quyền, để chúng ta được lấy điều nhân đức và thành thật mà ở đời cho bình tịnh yên ổn. Ấy là một sự lành và đẹp mắt Thiên Chúa là Đấng Giải Cứu chúng ta” (I Ti-mô-thê 2:1-3).

Xét về bổn phận cầu thay của thầy tế lễ, riêng đối với chúng ta là những con dân Chúa người Việt Nam, thì chúng ta cần cầu thay cách đặc biệt cho Hội Thánh Việt Nam và dân tộc Việt Nam. Chúng ta đang sống trong những ngày cuối cùng, là lúc mà: trong Hội Thánh thì có sự bội Đạo lớn, ngoài xã hội thì nền tảng đạo đức bị băng hoại đến mức tận cùng. Sự bội Đạo trong Hội Thánh tức là sự chối bỏ lẽ thật của Lời Chúa, chỉ biết làm theo lời truyền khẩu của loài người, của giáo hội mà phạm các điều răn của Đức Chúa Trời (Ma-thi-ơ 15:3). Sự băng hoại đạo đức ngoài xã hội thì đã đến mức tột cùng, khi xã hội chấp nhận tự do phá thai, tự do đồng tính luyến ái, và tự do làm ra các sự tà dâm khác…

Lời Chúa đã tiên tri rằng:

“Hãy biết rằng trong những ngày sau rốt, sẽ có những thời kỳ khó khăn. Vì người ta đều tư kỷ, tham tiền, khoe khoang, xấc xược, hay nói xấu, nghịch cha mẹ, bội bạc, không tin kính, vô tình, khó hòa thuận, hay phao vu, không tiết độ, dữ tợn, thù người lành, lường thầy phản bạn, hay nóng giận, lên mình kiêu ngạo, ưa thích sự vui chơi hơn là yêu mến Thiên Chúa, bề ngoài giữ điều nhân đức, nhưng chối bỏ quyền phép của nhân đức đó” (II Ti-mô-thê 3:1-5)…

Để có thể cầu thay cho Hội Thánh Việt Nam và dân tộc Việt Nam một cách có hiệu quả, chúng ta hãy noi gương các thánh đồ Thời Cựu Ước, mà thay cho con dân Chúa trong Hội Thánh, thay cho dân tộc của chúng ta, đứng ra xưng tội với Chúa, cầu xin sự thương xót và tha thứ của Ngài.

Nê-hê-mi đã xưng tội và cầu thay cho dân tộc của ông như sau:

“Ôi! Giê-hô-va Đức Chúa của các từng trời, tức Thiên Chúa cực đại và đáng khiếp sợ, hay giữ lời giao ước và lòng nhân từ cùng kẻ nào kính mến Ngài và vâng giữ các điều răn của Ngài! Tôi xin mắt Chúa hãy đoái đến và lỗ tai Chúa lắng nghe lời cầu nguyện của kẻ đầy tớ Chúa, mà tôi hiện lúc này, hằng ngày và đêm cầu nguyện vì dân I-sơ-ra-ên, là các tôi tớ Chúa, ở tại trước mặt Chúa; và xưng những tội của dân I-sơ-ra-ên mà chúng tôi đã phạm với Ngài. Và lại, tôi và nhà của tổ phụ tôi cũng có phạm tội. Chúng tôi có làm rất ác tệ, nghịch lại Chúa, không vâng giữ điều răn giới mạng và luật lệ của Chúa đã phán dạy Môi-se, là kẻ tôi tớ Chúa” (Nê-hê-mi 1:5-7).

Đa-ni-ên đã xưng tội và cầu thay cho dân tộc của ông như sau:

“Vậy, ta cầu nguyện Giê-hô-va Thiên Chúa ta, và ta xưng tội với Ngài mà rằng: Ôi! Chúa là Thiên Chúa cao cả và đáng khiếp sợ! Ngài giữ lời giao ước và sự nhân từ đối với những kẻ yêu Ngài và giữ các điều răn Ngài, chúng tôi đã phạm tội, làm sự trái ngược, ăn ở hung dữ, chúng tôi đã bạn nghịch và đã xây bỏ các giềng mối và lệ luật của Ngài. Chúng tôi đã không nghe các tôi tớ Ngài là các đấng tiên tri, đã lấy danh Ngài mà nói với các vua, các quan trưởng, các tổ phụ chúng tôi, và với cả dân trong đất. Hỡi Chúa, sự công bình thuộc về Ngài, còn sự hổ mặt về chúng tôi, như ngày nay, sự ấy bao trùm người Giu-đa, dân cư Giê-ru-sa-lem, hết thảy người I-sơ-ra-ên ở gần ở xa, trong mọi nước mà Ngài đã làm cho họ tan tác, vì cớ những sự gian ác họ đã phạm nghịch lại Ngài. Hỡi Chúa, sự hổ mặt thuộc về chúng tôi, về các vua, các quan trưởng, các tổ phụ chúng tôi, bởi chúng tôi đã phạm tội nghịch lại Ngài. Những sự thương xót và tha thứ đều thuộc về Chúa là Thiên Chúa chúng tôi; bởi chúng tôi đã bội nghịch Ngài” (Đa-ni-ên 9:4-9).

Chúng ta nhận thấy, trong lời cầu thay của Nê-hê-mi và Đa-ni-ên có các điều quan trọng sau đây:

1. Tôn xưng Thiên Chúa Tự Hữu Hằng Hữu là Thiên Chúa của mình.

Trước hết, chúng ta phải nhận biết Đấng mà chúng ta kêu cầu là ai. Ngài là Đấng Tự Có và Có đến Mãi Mãi, là Chúa của các tầng trời, là Đấng cao cả, vĩ đại, và đáng khiếp sợ. Nhưng, Ngài cũng chính là Thiên Chúa của chúng ta. Khi chúng ta gọi Ngài là Thiên Chúa của chúng ta là chúng ta chấp nhận rằng, chúng ta đầu phục Ngài, tôn thờ Ngài, và tin cậy Ngài.

2. Nhận biết sự thành tín và sự nhân từ của Ngài đối với những ai yêu kính Ngài, vâng giữ Lời Ngài.

Dầu Thiên Chúa của chúng ta là Đấng cao cả, vĩ đại, và đáng khiếp sợ, nhưng đối với những ai yêu kính Ngài, vâng giữ Lời Ngài, thì Ngài là nhân từ và làm thành mọi lời hứa của Ngài. Sự nhân từ của Ngài còn đến đời đời! Sự thành tín của Ngài là lớn lắm!

“Hỡi Đức Giê-hô-va, sự nhân từ Ngài ở trên các từng trời; Sự thành tín Ngài đến tận các mây” (Thi Thiên 36:5).

Bởi sự nhân từ của Thiên Chúa mà Ngài ban cho loài người các lời hứa về sự ban ơn và tha thứ của Ngài. Bởi sự thành tín của Ngài mà những ai yêu kính, vâng phục Ngài sẽ nhận được mọi lời hứa của Ngài.

3. Kêu cầu Ngài, dựa trên sự nhân từ và sự thành tín của Ngài.

Khi chúng ta kêu cầu Chúa, chúng ta không thể dựa trên công đức của mình, mà chúng ta chỉ có thể dựa trên sự nhân từ và sự thành tín của Ngài. Như đã nói, sự nhân từ và sự thành tín của Chúa vĩ đại và bao la không bờ bến. Trong khi đó, về phần chúng ta thì “mọi việc công bình của chúng tôi như áo nhớp” (Ê-sai 64:6)! Ngay cả khi chúng ta hết lòng yêu kính Chúa, chúng ta cũng không nên dựa trên tình yêu của mình đối với Ngài mà kêu cầu Ngài. Bởi vì, tình yêu của chúng ta đối với Chúa không thể nào vĩ đại cho bằng tình yêu của Chúa đối với chúng ta. Chúng ta muốn Chúa ban ơn cho chúng ta tùy theo mức độ chúng ta yêu Chúa hay tùy theo mức độ Chúa yêu chúng ta? Sự chúng ta yêu kính Chúa và vâng giữ Lời Ngài là điều kiện để Ngài lắng nghe chúng ta. Nhưng chúng ta kêu cầu Ngài, dựa trên sự nhân từ và sự thành tín của Ngài. Chúng ta mong mỏi Chúa cư xử với chúng ta theo sự nhân từ và thành tín của Ngài.

4. Xưng tội với Ngài: tội của dân tộc, từ vua quan cho đến dân chúng; tội của tổ phụ; và tội của cá nhân.

Trừ khi Chúa muốn thử thách chúng ta, tất cả mọi đau khổ, bất hạnh đến với chúng ta đều là hậu quả của tội lỗi. Chính Thánh Kinh cho chúng ta biết: “Mọi người đều đã phạm tội” (Rô-ma 3:23). Ngay cả trong Hội Thánh cũng có lắm kẻ “ăn ở như kẻ thù nghịch thập tự giá” (Phi-líp 3:18). Thánh Kinh khẳng định:

“Ví bằng chúng ta nói mình không có tội chi hết, ấy là chính chúng ta lừa dối mình, và lẽ thật không ở trong chúng ta. Còn nếu chúng ta xưng tội mình, thì Ngài là thành tín công bình để tha tội cho chúng ta, và làm cho chúng ta sạch mọi điều gian ác. Nhược bằng chúng ta nói mình chẳng từng phạm tội, ấy là chúng ta cho Ngài là kẻ nói dối, lời Ngài không ở trong chúng ta” (I Giăng 1:8-10).

Vì thế, chúng ta phải xưng tội với Chúa để được hưởng ơn tha thứ của Chúa.

5. Nhận sự sỉ nhục dành cho những kẻ chống nghịch Ngài.

Khi chúng ta đã nhận biết và xưng ra tội lỗi, thì chúng ta cũng phải công nhận sự sỉ nhục của tội nhân. Nghĩa là, chúng ta thưa với Chúa rằng, dân tộc chúng ta, tổ phụ chúng ta, bản thân chúng ta, và Hội Thánh Việt Nam bị sỉ nhục là xứng với sự phạm tội. Các lời công nhận sự sỉ nhục của tội nhân trong Thánh Kinh mà chúng ta có thể học theo, đó là:

“Hỡi Chúa, sự hổ mặt thuộc về chúng tôi, về các vua, các quan trưởng, các tổ phụ chúng tôi, bởi chúng tôi đã phạm tội nghịch lại Ngài” (Đa-ni-ên 9:7).

“Về phần chúng ta, chỉ là sự công bình, vì hình ta chịu xứng với việc ta làm” (Lu-ca 23:41)!

Công nhận sự sỉ nhục của tội nhân là công nhận địa vị thấp hèn và hư mất mà tội lỗi đã đem đến cho chúng ta. Công nhận sự sỉ nhục của tội nhân là công nhận hình phạt của tội lỗi, công nhận sự thánh khiết và sự công chính của Chúa, đồng thời, nói lên nỗi khao khát được cứu ra khỏi sự sỉ nhục và hư mất đó.

Mỗi cá nhân phải gánh chịu hậu quả tội lỗi của chính mình:

“Chớ vì con mà giết cha, cũng đừng vì cha mà giết con. Phàm người nào phạm tội, thì phải giết người nấy” (Phục Truyền Luật Lệ Ký 24:16).

“Nầy, mọi linh hồn đều thuộc về Ta; linh hồn của cha cũng như linh hồn của con, đều thuộc về Ta; linh hồn nào phạm tội thì sẽ chết… Linh hồn nào phạm tội thì sẽ chết. Con sẽ không mang sự gian ác của cha và cha không mang sự gian ác của con. Sự công bình của người công bình sẽ được kể cho mình, sự dữ của kẻ dữ sẽ chất trên mình” (Ê-xê-chi-ên 18:4, 20).

Nhưng mỗi cá nhân cũng phải gánh chịu hậu quả tội lỗi của tổ phụ mình:

“… Ta là Giê-hô-va Thiên Chúa ngươi, tức là Thiên Chúa hay ghen, hễ ai ghét Ta, Ta sẽ nhân tội tổ phụ phạt lại con cháu đến ba bốn đời” (Xuất Ê-díp-tô Ký 20:4; Phục Truyền Luật Lệ Ký 5:9).

Có người sẽ cho rằng hai câu Thánh Kinh nói về sự Thiên Chúa sẽ nhân tội tổ phụ phạt lại con cháu đến ba bốn đời là mâu thuẫn với hai câu: “Chớ vì con mà giết cha, cũng đừng vì cha mà giết con. Phàm người nào phạm tội, thì phải giết người nấy.” “Con sẽ không mang sự gian ác của cha và cha không mang sự gian ác của con.” Tuy nhiên, hai câu trên nói đến hình phạt trực tiếp đối với một hành động tội lỗi. Trong khi đó. Xuất Ê-díp-tô Ký 20:4 và Phục Truyền Luật Lệ Ký 5:9 nói đến hình phạt liên đới và gián tiếp truyền từ đời ông cha đến đời con cháu.

Thí dụ: Cha mẹ nghiện rượu và ma túy, có nếp sống tà dâm, trụy lạc, thì con cái được sinh ra có thể bị bệnh tật và mang chứng nghiện. Hoặc là cha mẹ thờ cúng thần tượng, dâng con cho tà thần, khiến cho nhiều đời con cháu trở thành nô lệ của Ma Quỷ. Đó là hậu quả đương nhiên của các hành động tội lỗi từ cha mẹ. Hậu quả đó có thể di truyền đến nhiều đời.

Ý nghĩa của sự Chúa nhân tội tổ phụ phạt lại con cháu đến ba bốn đời, là Chúa cho phép hậu quả gián tiếp của tội lỗi di truyền nhiều đời. Tuy nhiên, nếu con và cháu của tội nhân biết ăn năn, xưng tội của tổ phụ và của bản thân, thì Chúa lại tha thứ và làm ơn đến ngàn đời cho người biết ăn năn, xưng tội, và vâng phục Ngài:

“… và sẽ làm ơn đến ngàn đời cho những kẻ yêu mến Ta và giữ các điều răn Ta” (Xuất Ê-díp-tô Ký 20:5; Phục Truyền Luật Lệ Ký 5:10).

Tội lỗi của cá nhân còn đem họa đến cho cả dân tộc. Giô-suê 7 ghi lại câu chuyện một người I-sơ-ra-ên phạm tội không vâng phục mạng lệnh của Chúa mà cả dân I-sơ-ra-ên bị họa. Chúa không gọi đó là tội của A-can, người làm ra tội, mà Ngài gọi đó là tội của I-sơ-ra-ên:

“I-sơ-ra-ên có phạm tội; chúng nó bội nghịch giao ước Ta đã truyền cho đến nỗi dám lấy vật đáng diệt, ăn cắp vật đó, làm dối trá, và để trong bao mình” (Giô-suê 7:11).

Vì thế, nếu cả dân tộc hoặc Hội Thánh cùng phạm tội thì thật là đáng sợ trước sự phán xét của Chúa. Không cần phải dài dòng trình bày, chúng ta biết dân tộc Việt Nam đã và đang tiếp tục sống trong tội, chống nghịch các điều răn của Chúa như thế nào! Cũng không cần phải dài dòng trình bày, chúng ta biết Hội Thánh Việt Nam đã và đang tiếp tục phạm các điều răn của Chúa như thế nào!

Trong sự cầu thay cho Hội Thánh Việt Nam và dân tộc Việt Nam, chúng ta hãy bởi sự nhận biết của thần trí mà xưng nhận trước Chúa các tội lỗi của Hội Thánh và dân tộc. Khi chúng ta chân thành muốn ăn năn và xưng tội với Chúa, thì Đức Thánh Linh sẽ bày tỏ cho chúng ta biết rằng: dân tộc chúng ta, tổ phụ chúng ta, bản thân chúng ta, và ngay cả Hội Thánh giữa lòng dân tộc chúng ta, đã và đang phạm tội như thế nào.

6. Nhận biết sự thương xót và sự tha thứ thuộc về Chúa, không phải hễ chúng ta muốn thì được.

Nhận biết sự thương xót và sự tha thứ thuộc về Chúa có nghĩa là, nhận rằng, chúng ta không xứng đáng được Chúa tha thứ; Chúa tha thứ chúng ta là hoàn toàn do sự nhân từ và thương xót của Ngài. Giả sử, Chúa không ban sự cứu rỗi cho một người nào thì cũng không phải vì thế mà Ngài không nhân từ, không thương xót. Điều chúng ta cần phải hiểu ở đây là: Trong khi Chúa là Đấng “nhân từ, thương xót, chậm giận, đầy dẫy ân huệ và thành thực” (Xuất Ê-díp-tô Ký 34:6); thì Ngài cũng là Đấng “làm ơn cho ai Ta muốn làm ơn, và thương xót ai Ta muốn thương xót” (Xuất Ê-díp-tô Ký 33:19). Ngài có toàn quyền chỉ làm ơn và thương xót những ai không vi phạm các điều răn của Ngài.

Nhân từ và thương xót là bản tính của Chúa. Bởi sự nhân từ và thương xót mà Chúa hứa ban sự tha tội cho những ai biết ăn năn tội. Nhưng tội nhân không có quyền yêu cầu Chúa phải thương xót mình, tha thứ cho mình. Nghĩa là, nếu Chúa không có lời hứa về sự tha tội, thì dù tội nhân có ăn năn tội cũng sẽ không nhận được sự tha thứ của Chúa. Có hiểu rõ điều này thì chúng ta mới không dám khi dễ sự thương xót và tha thứ của Chúa. Nhiều người nghĩ rằng, tôi cứ phạm tội rồi sẽ ăn năn xưng tội với Chúa sau. Cũng có người xin Chúa tha tội trước khi phạm tội! Đó là một sự suy nghĩ ngu dại và phạm thượng. Ngu dại vì không biết rằng, sự tha thứ tùy thuộc vào Chúa. Ngài có thể chấm dứt sự làm ơn và thương xót của Ngài bất kỳ lúc nào. Lấy gì để bảo đảm là trong lần cố tình phạm tội này của chúng ta, Chúa vẫn còn muốn làm ơn cho chúng ta và vẫn còn thương xót chúng ta? Thậm chí, Ngài có thể làm cho kẻ chỉ muốn sống trong tội bị cứng lòng, không thể ăn năn tội:

” Vì Ngài phán cùng Môi-se rằng: Ta sẽ làm ơn cho kẻ ta làm ơn, ta sẽ thương xót kẻ ta thương xót. Vậy điều đó chẳng phải bởi người nào ao ước hay người nào bôn ba mà được, bèn là bởi Đức Chúa Trời thương xót. Trong Thánh Kinh cũng có phán cùng Pha-ra-ôn rằng: Nầy là cớ vì sao ta đã dấy ngươi lên, ấy là để tỏ quyền phép ta ra trong ngươi, hầu cho danh ta được truyền ra khắp đất. Như vậy, Ngài muốn thương xót ai thì thương xót, và muốn làm cứng lòng ai thì làm” (Rô-ma 9:16-18).

Còn phạm thượng là vì, khi chúng ta đã ý thức rằng, mọi tội lỗi của loài người được tha thứ bởi sự đổ máu của Đức Chúa Jesus Christ trên thập tự giá, mà chúng ta vẫn cố tình phạm tội, rồi dựa vào sự đổ máu của Chúa để xin Chúa tha thứ, thì chúng ta đã xem máu của Chúa là ô uế, và khinh thường ơn của Đức Thánh Linh (Hê-bơ-rơ 10:26-29).

7. Nhận biết mình đang đứng trong địa vị tôi tớ của Chúa mà kêu cầu!

Để có thể đứng trong địa vị tôi tớ của Chúa, thì trước hết, chúng ta phải thật lòng ăn năn tội, tin nhận sự cứu rỗi của Đức Chúa Jesus Christ. Khi đó, Đức Chúa Jesus Christ sẽ dùng máu của Ngài rửa sạch mọi tội của chúng ta. Đức Thánh Linh sẽ tái sinh chúng ta, ban cho chúng ta Thánh Linh của Đức Chúa Trời, để chúng ta có thể vâng giữ các điều răn của Đức Chúa Trời. Chỉ khi đó, chúng ta mới trở thành tôi tớ Chúa để làm theo những việc lành mà Đức Chúa Trời đã sắm trước cho chúng ta:

“Vì chúng ta là việc Ngài làm ra, đã được dựng nên trong Đấng Christ Jesus để làm những việc lành mà Đức Chúa Trời đã sắm sẵn trước cho chúng ta làm theo” (Ê-phê-sô 2:10).

Mỗi con dân chân thật của Chúa là một tôi tớ của Chúa. Chúng ta thường sai lầm trong việc xem những người có các chức vụ cai trị và gây dựng Hội Thánh là tôi tớ Chúa, còn những ai không có các chức vụ đó thì không phải là tôi tớ Chúa! Sự sai lầm đó do các tổ chức giáo hội gây ra, khi họ dùng riêng danh xưng tôi tớ Chúa cho những người có các chức vụ cai trị và gây dựng trong Hội Thánh. Nếu mỗi Cơ-đốc nhân là một thầy tế lễ của Đức Chúa Trời và nếu mạng lệnh của Chúa trong Ma-thi-ơ 28:19-20 là dành cho mỗi Cơ-đốc nhân, thì tại sao không phải mỗi Cơ-đốc nhân là một tôi tớ của Chúa?

Chúng ta được gọi bằng danh xưng Cơ-đốc nhân (Công Vụ Các Sứ Đồ 11:26), có nghĩa là người tin và vâng theo Đấng Christ, làm những việc Đấng Christ làm (Giăng 14:12; I Giăng 2:6). Vì thế, mỗi chúng ta đã được Đức Chúa Trời xức dầu để làm đấng tiên tri, thầy tế lễ, và nhà vua trong thế gian và trong Vương Quốc sắp đến của Đức Chúa Trời:

  • Trong chức vụ tiên tri, chúng ta rao giảng cho thế gian về Tin Lành của Đức Chúa Trời và kêu gọi mọi người ăn năn tội, tin nhận sự cứu rỗi của Đức Chúa Jesus Christ. Chúng ta làm báp-tem cho người tin nhận Chúa và dạy cho họ những điều Chúa đã truyền cho chúng ta, là những điều được ghi trong Thánh Kinh, không phải những điều được ghi trong các sách giáo lý và các hiến chương, nội quy của các giáo hội.

  • Trong chức vụ tế lễ, chúng ta hằng dâng thân thể mình, dâng lời cảm tạ, tôn vinh danh Chúa, và các việc lành lên Chúa, đồng thời, cầu thay cho mọi người. Chúng ta cùng nhau làm Tiệc Thánh để nhớ đến Chúa bất kỳ lúc nào chúng ta muốn, chứ không phải chúng ta nhờ đến một ai đó được các giáo hội phong chức “mục sư,” đứng ra “ban Tiệc Thánh” cho chúng ta. Một số giáo hội dùng từ ngữ “ban Tiệc Thánh” là đã vô tình phạm thượng. Vì chỉ có một Đấng “ban Tiệc Thánh” là Đức Chúa Jesus Christ. Ngài đã làm việc đó từ gần hai ngàn năm trước. Ngày nay, chúng ta là con dân Chúa, chúng ta chỉ cần dự Tiệc Thánh mà Chúa đã ban, để nhớ đến Ngài! Chúng ta không cần ai “ban Tiệc Thánh” cho chúng ta cả.

  • Trong chức vụ vua, chúng ta bởi năng lực của Đức Chúa Trời, là Thánh Linh của Ngài, nghiêm khắc cai trị thân thể mình, để một ngày kia, chúng ta được đồng trị với Đức Chúa Jesus Christ trong Vương Quốc của Đức Chúa Trời:

“Nhưng tôi đãi thân thể mình cách nghiêm khắc, bắt nó phải phục, e rằng sau khi tôi đã giảng dạy kẻ khác, mà chính mình phải bị bỏ chăng” (I Cô-rinh-tô 9:27).

“Lại nếu chúng ta chịu thử thách nổi, thì sẽ cùng Ngài đồng trị; nếu chúng ta chối Ngài, thì Ngài cũng sẽ chối chúng ta” (II Ti-mô-thê 2:12).

Có nhận biết mình là một tôi tớ Chúa thì chúng ta mới có thể làm công việc cầu thay cho Hội Thánh Việt Nam và dân tộc Việt Nam.

Nguyện xin Đức Thánh Linh khắc ghi những lẽ thật về sự cầu thay vào trong tâm thần của mỗi một chúng ta, để chúng ta có thể làm tròn thiên chức cầu thay cho Hội Thánh Việt Nam và dân tộc Việt Nam, từ nay cho đến ngày Chúa đến! A-men!

Huỳnh Christian Timothy
Huỳnh Christian Priscilla
29/06/2013

Ghi Chú

Thánh Kinh Việt Ngữ Bản Hiệu Đính 2012: Các câu Thánh Kinh được trích dẫn trong bài này là theo Thánh Kinh Việt Ngữ Bản Hiệu Đính 2012. Đây là bản Thánh Kinh Việt Ngữ trên mạng, đang trong tiến trình hiệu đính để hoàn thành Thánh Kinh Việt Ngữ Bản Dịch Ngôi Lời. Quý con dân Chúa có thể đọc tại đây: https://thanhkinhvietngu.online/tiengviet/. Những sách nào đã được hiệu đính hoàn toàn sẽ được đăng tại đây: https://christ.thanhkinhvietngu.net/.

  • Các chữ nằm trong hai dấu { } không có trong nguyên văn của Thánh Kinh, nhưng được hàm ý theo cấu trúc của văn phạm tiếng Hê-bơ-rơ và tiếng Hy-lạp.

  • Các chữ nằm trong hai dấu [ ] không có trong nguyên văn của Thánh Kinh, đó là chú thích của người dịch.