Hoa Huệ Giữa Chông Gai – 01

2,320 views


https://youtu.be/rBy32MgmR1M


https://od.lk/d/MV8xODAzMjE5MjFf/HoaHueGiuaChongGai_01.mp3


https://soundcloud.com/huynh-christian-timothy/hoahuegiuachonggai-01

Tải xuống bài viết, mp3, và video tại đây:
https://od.lk/fl/MV8yMDkxNzgyNF8

Anh Hùng Đức Tin
Hoa Huệ Giữa Chông Gai

Nguyên tác: Danyun
Chuyển ngữ: Vô Danh

Lời Giới thiệu

Tác phẩm “Hoa Huệ Giữa Chông Gai” ghi lại tám câu chuyện, là những lời chứng về các anh hùng đức tin tại Trung Quốc, ngay trong thời đại của chúng ta. Đức Chúa Trời đã dùng những con người tầm thường nhất (theo quan điểm của thế gian) để làm thành công việc vĩ đại của Ngài ở Trung Quốc: Công việc rao truyền ơn cứu rỗi của Đức Chúa Trời cho các dân tộc sống dưới ách cai trị độc tài vô thần của cộng sản tại Trung Quốc; và thống nhất Hội Thánh của Chúa trên đất nước bao la này.

Tám câu chuyện. Tám lời chứng được đóng dấu bằng máu và nước mắt, nhưng không kém phần hùng tráng. Từ trong đáy vực tối tăm của đày đọa nhục hình, của địa ngục trần gian, những lời nguyện, những lời ca phát xuất từ những con tim đã trọn vẹn hiến dâng cho Chúa, vượt không gian, đến tận ngôi thánh của Đức Chúa Trời, làm thức hương thơm dâng lên cho Ngài, và vượt cả thời gian, chạm đến triệu triệu con tim của mọi thánh đồ, để minh chứng rằng: “Sự bình an của Đức Chúa Trời vượt quá mọi sự hiểu biết, sẽ giữ gìn lòng và tâm trí của các anh chị em trong Đấng Christ Jesus” (Phi líp 4:7).

Chúng tôi đọc từng dòng, từng chữ và cảm nhận được năng quyền của Đức Thánh Linh qua từng tình tiết trong các lời chứng. Lòng chúng tôi đau đớn với những đớn đau mà anh chị em cùng đức tin của chúng ta đã và đang gánh chịu vì danh Chúa tại Trung Quốc. Có lúc, chúng tôi dừng lại, tự hỏi: Chúa ơi! Sao con dân Chúa phải gánh chịu những đớn đau này? Nhưng rồi chúng tôi nhận biết đó là những phước hạnh còn đến đời đời mà Chúa đã ban cho những người đã tận hiến đời mình cho Chúa. Phước hạnh của sự được chia xẻ những đau đớn trong thể xác với Chúa Cứu Thế. Chính những cơn bách hại khủng khiếp, dã man đó đã tinh luyện Hội Thánh của Chúa khỏi những cặn bã của cơ hội chủ nghĩa, cá nhân chủ nghĩa, vật chất chủ nghĩa, biến Hội Thánh của Chúa trở nên tinh sạch như vàng ròng.

Ước mong rằng cuốn sách “Hoa Huệ Giữa Chông Gai” này sẽ làm thức tỉnh những con dân Chúa đang mơ màng trong những giấc mộng của cuộc đời: danh, lợi, quyền… sớm thức tỉnh để hết lòng dấn thân cho công việc rao giảng Tin Lành, là trách nhiệm của mỗi một con dân Chúa.

CÂY BÁCH CỦA RỪNG LI-BAN

X. Mao ra đời năm 1916. Lúc còn trẻ tuổi anh chống đối Đạo Chúa kịch liệt. Anh khinh bỉ Đạo Cơ-đốc và dùng mọi cơ hội để phỉ báng những người tin Đức Chúa Trời.

Vào đầu năm 1948, anh bị một căn bệnh vô phương cứu chữa, anh đã làm tất cả những gì mình có thể làm, để tìm sự cứu giúp và sự chữa lành. Khi các bác sĩ ở quê anh không còn làm gì cho anh được nữa, anh đã lặn lội lên bệnh viện lớn nhất của tỉnh, đổ hết tiền của vào sự chữa trị. Nhưng mới vài tuần sau thì anh đã bị bệnh viện cho về, vì họ cũng không làm gì cho anh được nữa.

Anh nằm ở nhà một mình, trong lúc rất tuyệt vọng và gần kề với sự chết, thì có một người bà con đến thăm và giục lòng anh tin Chúa Jesus. Trong cơn hoạn nạn, Mao đã bám vào cọng rơm duy nhất còn lại này, còn có thể mang hi vọng đến cho anh. Sau vài lần nói chuyện với người bà con anh đã quyết định: nếu như Jesus này có thể giúp anh thực sự, thì anh sẽ từ bỏ tất cả những thái độ chống đối của mình với Đạo Chúa. Bây giờ, nó liên hệ đến sự sống của anh và anh cũng chẳng mất mát gì. –

Nên anh đã quyết định làm một thử nghiệm và cầu nguyện với Chúa Jesus. Khi anh nói rằng, anh muốn bắt đầu một cuộc sống mới với Chúa Jesus là Chúa của mình thì anh đã nói bằng sự nghiêm túc và chân thành. Ngay lập tức, anh kinh nghiệm một sự bình an mới mẻ trong lòng và xua tan mọi sự sợ chết đang dày vò. Trong những ngày tiếp theo, tình trạng sức khỏe của anh tiến triển khá hơn. Bây giờ thì anh muốn biết ông Jesus này là ai, mà đã giúp đỡ anh quá rõ ràng, mặc dù từ trước tới giờ, anh toàn chống đối. Anh tận dụng mọi cơ hội để tìm hiểu thêm về Đức Chúa Trời và Thánh Kinh. Mấy ngày sau đó, anh hoàn toàn bình phục. Kể từ lúc đó, không có gì làm anh say mê hơn là được tiếp cận với Đức Chúa Trời và với Lời của Ngài.

Chỉ bảy tuần lễ sau khi tin nhận Chúa, anh đã được người chăn cử đi giảng ở một vùng nọ. Đó là sự bắt đầu của một cuộc đời làm người chăn và rao truyền Tin Lành. Anh đã phục vụ Đức Chúa Trời rất tận tụy. Anh càng nhận biết Ngài, thì càng yêu mến Ngài hơn, và càng được kinh nghiệm quyền năng và sự gần gũi bên Ngài nhiều hơn, hầu cho anh không hề sợ hãi trước những sự tấn công, bắt bớ vì cớ đức tin.

Sáu năm sau, vào mùa đông năm 1954, Mao bị mời lên chính quyền địa phương. Những người trong quân đội nhân dân và công an an ninh đả kích anh kịch liệt và tìm cách “cải tạo” anh. Người chỉ huy cuộc hỏi cung là một cán bộ đảng địa phương, giải thích cho anh về những điều then chốt của chính sách tôn giáo: “Niềm tin vào Chúa Jesus là nọc độc của chủ nghĩa đế quốc và là một phương tiện của phản động nước ngoài. Dân tộc chúng ta chỉ tin vào chủ nghĩa Mác-xít. Chúng tôi nghiêm cấm anh tin vào Chúa Jesus. Nếu anh còn tiếp tục tin, thì anh sẽ bị coi là phản cách mạng…” Sau khi người cán bộ nói xong, thì ra lệnh cho Mao phải tuyên bố từ bỏ đức tin của mình, và phải viết một tờ tuyên bố ly khai với Hội Thánh.

Mao đã trả lời bằng một giọng điềm tĩnh: “Chúa Jesus là Đấng Cứu Rỗi của đời sống tôi. Nếu không có Ngài thì chắc hôm nay tôi không còn nữa. Trong khi tôi bị ốm chỉ còn chờ chết, thì Ngài đã đến và cho tôi khỏe mạnh trở lại. Tôi sẽ rất vô ơn nếu như tôi chối bỏ Ngài. Tôi không thể làm theo mệnh lệnh của các ông được.” Khi những người công an nghe điều đó thì họ trở nên giận dữ, và bắt đầu đấm đá anh túi bụi. Mao đã cầu nguyện khẩn thiết, xin Đức Chúa Trời giúp đỡ mình, để khỏi bị sợ hãi trước những đau đớn. Anh không khi nào muốn phản bội lại niềm tin của mình, nhưng với sức lực con người của bản thân, thì chắc anh khó có thể chịu đựng nổi cuộc tra tấn này. Và, trong khi những đòn tra tấn đổ xuống trên thân thể, anh kinh nghiệm được một niềm vui mừng siêu nhiên, càng lúc càng đầy dẫy trong anh càng thêm. Anh cảm nhận Đức Thánh Linh gần gũi mình rất đặc biệt và rất dễ chịu. Mặc dù những kẻ tra tấn dùng đủ mọi biện pháp, cũng không đạt được ý muốn là làm khuất phục ý chí của Mao. Họ gán cho anh là kẻ phản Mác-xít và nổi loạn, chống lại “chủ tịch vĩ đại”. Anh bị chụp mũ là một tên phản cách mạng và bị công an canh giữ. Ít lâu sau đó, chính quyền lên án anh đã cấu kết với các tổ chức phản động nước ngoài. Mấy ngày sau đó anh bị bắt giam. Vào khoảng cuối năm 1954, anh bị kết án năm năm tù và bị đem đi cải tạo ở một trại cải tạo thuộc tỉnh H. vùng lạnh nhất của Trung Quốc. Ở đó, không những anh đã trung thành với niềm tin của mình, mà còn kể cho những bạn tù nghe về Chúa Jesus. Vì vậy, án tù của anh đã bị tăng lên thêm mười năm. Vậy là anh phải chịu mười lăm năm sống trong một trại lao động và cải tạo ở miền đông bắc Trung Quốc.

Đó không phải là một thời gian nhẹ nhàng. Anh ở trong một nhà tù vô nhân đạo, nền đất hầu như quanh năm phủ tuyết băng giá. Anh thường xuyên bị tên cai ngục đánh bằng roi da hay phải bị tra khảo không ngớt. Tại nơi quê nhà xa xôi, anh không còn bố mẹ, anh chị em hay là Hội Thánh đứng đằng sau mình. Niềm an ủi duy nhất của anh, đó là lời cầu nguyện của người vợ và những lời khích lệ trong những lá thư chung thủy và dạt dào tình cảm.

Vào năm tù thứ hai, anh phải nói cho người vợ trẻ yêu dấu của mình là anh đã bị tăng án tù từ năm năm trở thành mười lăm năm. Anh cảm thấy lo lắng cho vợ mình, nàng sẽ chịu đựng ra sao cái hung tin này? Một thời gian lâu, anh không nhận được thư trả lời của vợ. Sau đó, lá thư đã đến. Đó là một sự chấn động kinh hoàng, sự đau đớn nhất mà anh chưa từng thấy. Sau khi vợ anh nghe tin án tù của anh đã tăng lên mười lăm năm, đó là một thời gian dài của sự lạnh giá và đói khát, thì nàng đã từ bỏ niềm hi vọng được nhìn thấy chồng mình, nên đã yêu cầu Mao đồng ý cho nàng li dị.

Mao vừa đọc xong thư, anh vẫn còn chưa tin ở mắt mình. Sau khi anh đã biết chắc rằng người đề nghị li dị đó là vợ mình, thì một sự hốt hoảng và kinh khủng đã ập đến, khiến anh bị ngất đi. Về sau, anh đã suy nghĩ về hoàn cảnh của mình, anh mới cảm thấy đau đớn, vì bây giờ không còn ai ở bên cạnh anh nữa. Cùng với người vợ, anh cũng đã mất đi người duy nhất trên trần gian này, là người giúp đỡ và cầu nguyện cho anh.

Anh thấy mình bị bỏ rơi và bất hạnh, không còn biết gì đến sự lạnh giá, anh đã mở toang cánh cửa phòng và chạy ra một khu rừng nhỏ, ở đó, anh đã quỳ gối xuống trên tuyết và khóc nước mắt dàn dụa, kêu la thống thiết lên với Chúa. Nỗi đau đớn đầy trong anh, đến nỗi không thể nói bằng lời được. Anh cứ để cho nước mắt mình trào ra. Rồi bỗng nhiên anh nghe thấy tiếng êm dịu của Đức Thánh Linh nói rằng: “Con phải nhịn nhục để làm trọn ý muốn Đức Chúa Trời, sau đó con sẽ nhận được lời hứa.” Tức thì anh nhớ đến Thi Thiên 73:25 “Ở trên các tầng trời tôi có ai ngoài Ngài? Còn ở dưới đất, ngoài Ngài tôi chẳng ước ao chi.”

Sự hiện diện của Đức Chúa Trời dần dần an ủi anh trở lại, và nỗi đau đớn tan dần. Sau khi anh đã trút hết tấm lòng mình cho Chúa, thì anh bắt đầu hát bài hát này:

Gia đình tôi đã ngoảnh mặt khỏi tôi
Các bạn bè tôi chế nhạo tôi
Ngài ban cho tôi sự nhịn nhục và kiên trì,
Để chịu đựng sự nhục nhã.
Chúa ơi! Con yêu Ngài với tất cả trái tim!
Con yêu Ngài hết lòng, bây giờ và mãi mãi
Cho dù biển cạn và đá ghềnh tan nát
Chúa ơi! Con yêu Ngài với tất cả trái tim!

Sự gần gũi êm ái và âu yếm của Đức Thánh Linh bao phủ anh. Đức Chúa Trời của anh sẽ không bao giờ lìa bỏ anh, như Ngài đã khẳng định trong Lời Ngài. Bằng một giọng nhỏ nhẹ, anh cảm tạ Đức Chúa Trời vì tình yêu vĩnh cửu của Ngài. Ngài thật xứng đáng để phó thác và Ngài đã đáp ứng mọi nhu cầu của anh. Nếu giả sử không còn ai cầu nguyện cho anh, thì Chúa Jesus hàng ngày ở bên Cha để cầu nguyện cho anh. Đức Thánh Linh nhắc anh nhớ lại tất cả những lời an ủi trong Thánh Kinh, để chỉ cho anh thấy tình yêu Đức Chúa Trời. Dần dần, anh trở nên bình tĩnh lại. Anh có thể tha thứ cho người vợ của mình, có thể chúc phước cho cô; và anh cảm tạ Đức Chúa Trời, là Đấng sẽ săn sóc anh bằng những sự an ủi và động viên trong những năm tháng sắp đến đang ở trước mặt anh. Anh từ từ đứng lên và đi trở về phòng giam. Ngay trong buổi tối của ngày hôm đó, anh đã viết một bức thư cho vợ mình, tuyên bố mình đồng ý li dị.

Ở trong trại cải tạo lao động có tất cả 1.300 tù nhân, nhưng số người tin Đức Chúa Trời là thiểu số. Bởi vì Mao là một Cơ-đốc nhân, nên anh thường xuyên bị theo dõi. Những công an mật, trà trộn nhan nhản mọi nơi, không rời mắt khỏi anh. Vào một ngày kia, khi anh đang kể cho những bạn tù về Chúa Jesus, thì có những kẻ giám sát rình nghe trộm được. Nhiều lính canh xông vào anh, trói anh lại và đem lên văn phòng quản lý nhà tù. Ở đó, chúng bắt anh quỳ trên một chiếc ghế gỗ nhỏ có chiều ngang chỉ bằng bốn ngón tay. Chúng vây quanh anh, thay phiên nhau mà đấm vào mặt anh, nhổ trên mặt anh và lấy làm thích thú: “Đấng Cứu Thế của mày ở đâu rồi hả? Hãy nói với Ngài đến mà báo thù chúng tao!” Mao quỳ trên ghế gỗ và cứ để cho mọi điều đó diễn ra, mà không trả lời một câu nào. Trong lòng, anh cầu nguyện không thôi. Anh tha thứ cho những kẻ hành hạ mình và xin Đức Thánh Linh ban sức lực cần thiết cho anh. Sự hiện diện của Đức Chúa Trời đã đưa anh qua khỏi cơn gian nguy này. Trong lòng anh đầy sự bình an và anh thấy vui mừng vì kinh nghiệm được sự gần gũi của Đức Chúa Trời hơn mọi sự tấn công và đau đớn. Hằng giờ đồng hồ trôi qua, những dây trói cắn chặt vào khuỷu tay, chân anh bị tê dại, cuối cùng anh thấy mặt tối sầm, ngã qụy xuống đất và ngất đi.

Dường như những tên cai tù không thiếu những sáng kiến hành hạ tù nhân. Nhiều lần chúng đeo lên cổ anh một tấm vỉ của lò sưởi bằng gang, nặng hơn 20 cân. Trên đó, chúng gắn một tấm bảng đề: “X. Mao, tên cầm đầu theo sự mê tín dị đoan, phản cách mạng”. Anh phải đeo nó đi vòng quanh ngoài nhà tù. Khi chúng thấy tất cả những cái đó không giúp ích gì, và dường như X. Mao thà chết còn hơn là phải từ bỏ niềm tin của mình, thì chúng dùng đến biện pháp cứng rắn nhất mà chúng hiện có. Chúng xiềng tay anh lại, trói chân anh vào một khúc gỗ bị chôn chặt xuống đất, và anh cứ phải ở như vậy trong một xà lim cá nhân trong mấy tháng liền, không có cửa sổ. Nhưng điều đó không thể khuất phục được đức tin của Mao, vì Đức Chúa Trời ở gần bên anh trong từng giây phút, đến nỗi những sự đày đọa bên ngoài không thể so sánh với những sự tốt lành bên trong mà anh kinh nghiệm với Đức Chúa Trời.

Vào một mùa đông đặc biệt buốt giá. Trong khắp tỉnh H. nhiệt độ giảm xuống 45 độ âm. Nhiều người già và yếu bị chết vì lạnh. Đồng thời có một bệnh dịch truyền nhiễm lan tràn ra trong vòng những tù nhân. Những tù nhân mắc bệnh bị sốt cao, mắt họ lồi ra và chân tay run rẩy, rồi chết. Đó là một cảnh tượng đầy tang thương. Trong vòng ít ngày đã có 1.050 người chết trong số 1.300 tù nhân. Những người có trách nhiệm đã cho đào một hố lớn, dùng xe tải chở những xác chết và vứt xuống hố chôn người tập thể đó.

Mao cũng bị căn bệnh kinh khủng đó bắt lấy. Khi người bác sĩ đã kiệt sức vì thiếu ngủ, đến khám cho anh, thì lắc đầu và nói với những kẻ đứng canh chung quanh: “Lại thêm một người nữa!” Chúng đem anh vào trong một phòng dành riêng cất các xác chết, trước khi chở ra hố chôn tập thể. Vậy, anh nằm ở đó, nửa sống, nửa chết, ở giữa các xác chết, nhưng tâm linh anh vẫn tỉnh táo, và anh cầu nguyện thành lời: “Chúa ơi! Con xin Ngài hãy cứu sống con, đừng để con chết ở nơi vô thần này. Hãy chữa lành con và đem con trở về nhà bình an. Con sẽ hầu việc Ngài mỗi ngày còn lại, và con muốn làm người rao truyền Tin Lành cho Ngài theo như sự Ngài cho phép con.” Cùng lúc đó, có một thiên sứ đến và đứng trước Mao. Thiên sứ mặc một áo trắng và gương mặt thiên sứ tỏa chiếu vinh quang của Đức Chúa Trời. Trên lưng thiên sứ đem theo một túi y tế, mang hình thập giá. Bằng một giọng rất êm dịu, thiên sứ nói: “Anh là Mao phải không? Đừng sợ! Hãy tin mà thôi!” Rồi, thiên sứ giơ tay phải mình ra nắm lấy tay trái Mao và đem anh ra khỏi căn nhà. Thiên sứ đem anh đến một phòng rất đẹp, căn phòng có màu trắng không thể tả được và thiên sứ đặt anh ngồi lên một chiếc ghế màu trắng. Thiên sứ cầm lấy ống nghe bệnh, đem bỏ vào đó một dịch thuốc màu trắng, và thổi qua ống nghe bệnh đó. Trong cùng lúc đó, Mao có một cảm giác lành lạnh dễ chịu và bắt đầu thấy tươi tỉnh.

Sau khi anh tỉnh lại, thì căn bệnh đã rời khỏi anh. Lập tức anh quỳ gối giữa những xác chết ngổn ngang trên mặt đất và lớn tiếng tạ ơn Đức Chúa Trời. Anh lại hứa nguyện dâng trọn đời sống mình cho Đức Chúa Trời và để cho Ngài sử dụng vô điều kiện. Sau đó, anh nhanh chóng rời khỏi chỗ chết đó, chạy nhanh đến gặp bác sĩ và muốn xin ông ít thức ăn. Nhưng khi người bác sĩ thấy anh đi vào cửa, thì toát mồ hôi lạnh. Người bác sĩ lui lại, hoảng sợ và nói ú ớ: “Anh… anh… anh… là… một… con ma?” Mao tươi cười bảo: “Xin ông đừng sợ, tôi là Mao. Đức Chúa Trời tôi đã chữa lành cho tôi. Chúa Jesus đã cứu tôi thoát chết. Ngài đã sai tôi để chỉ cho ông biết con đường đến với Đức Chúa Trời. Cho nên bây giờ ông hãy trở lại tin Chúa Jesus.”

Khi người bác sĩ nghe điều đó, ngay lập tức và rất bình tĩnh, ông đã quỳ gối xuống và nói: “Đức Chúa Trời của anh là thật. Chúa Jesus là Thiên Chúa Hằng Sống. Bây giờ, tôi cũng muốn tin Ngài và xin Ngài tiếp nhận tôi.”

Mao đã nhiều lần chứng kiến Đức Chúa Trời cứu anh khỏi nanh vuốt của tử thần ra sao. Ở một miền đất không có sự sống, đầy băng tuyết, phải chịu đựng mười lăm năm ròng rã, bị phó cho những sự tra tấn và đày đọa dã man, anh còn sống sót được, thì đó quả là một phép lạ.

Đa số những người bị đem đến trại cải tạo H. đều chết vào những năm đầu tiên. Nhưng trong thời gian dài bị tù đày ở H. làm thế nào mà Mao có thể sống sót được? Khu rừng nhỏ bên cạnh đó là điều bí mật của anh. Bất cứ lúc nào thuận tiện, anh đều rút vào trong khung trời tự do nhỏ bé này, hầu hết là vào ban đêm, khi tất cả đã ngủ hết, và anh đã cầu nguyện. Ở đó, anh đã nhận được sức lực mới từ Đức Chúa Trời, một sức mạnh, thậm chí vượt qua được cả sự chết và sống một đời sống đắc thắng trong những hoàn cảnh kinh khủng.

Và rồi, ngày anh được thả ra đã đến. Mười lăm năm ở trại lao động cải tạo lùi lại sau lưng, lúc anh ngồi trong toa tàu vào năm 1969, chở anh về tỉnh quê nhà. Trong suy nghĩ, anh tràn đầy sự biết ơn, khi nhớ lại những lúc đau thương. Nhưng trong những lúc có cả máu và nước mắt đó, anh đã kinh nghiệm được sự gần gũi của Đức Chúa Trời và sự nương náu trong Ngài, đồng thời sự suy nghĩ của anh cũng vượt nhanh hơn chuyến tàu. Anh không ngớt nghĩ đến sự tái ngộ với các anh chị em con cái Chúa khác, và những điều mình sẽ kể cho họ. Có biết bao phép lạ anh đã kinh nghiệm trong những năm qua! Anh vui mừng vì sẽ được chia sẻ cho các bạn bè ở quê hương về những kinh nghiệm này. Nhưng anh chưa biết rằng, thời kỳ hoạn nạn của anh chưa phải là chấm dứt, rằng đang còn những sự bắt bớ tiếp tục chờ đợi anh.

Trong khi Mao còn ở trên chuyến tàu dài ngày và cuối cùng đến trong mảnh đất quen thuộc, mà trước đây từng là quê hương mình, thì anh chưa thể hình dung hết những điều gì đã xảy ra ở dưới cuộc cách mạng văn hóa. Anh không biết rằng, cuộc cách mạng văn hóa đã lan tràn khắp nơi và đến cả những nơi xa xôi hẻo lánh nhất. Những công nhân viên và quan chức của chế độ cũ bị nghi ngờ, thì bị đem giải đi công khai trên đường phố đến các cuộc đấu tố, đó là những chuyện thường ngày xảy ra ở thời kỳ đó. Họ bị tra khảo, bị mắng chửi, bị đánh đập, và bị bắt ép “tự tố giác mình”. Và cuộc sống của những người xưng nhận niềm tin công khai lại càng ở trong sự nguy hiểm.

Và cũng như vậy, Mao vừa đặt chân đến chỗ ở mới của mình, là anh bị chính quyền địa phương mời lên. Những cán bộ hỏi anh: “Sau khi ông đã ở trong trại cải tạo mười lăm năm, ông có từ bỏ niềm tin của mình không?”

Mao suy nghĩ về sự hiện diện của Đức Chúa Trời mà anh đã thường xuyên kinh nghiệm được suốt mười lăm năm qua. Dẫu anh cảm thấy yếu đuối và trong những hoàn cảnh đó, dù sự tấn công chống lại anh có điên cuồng và tàn bạo đến đâu, thì anh cũng được kinh nghiệm quyền phép của Đức Thánh Linh một cách đặc biệt. Nhưng làm sao anh có thể giải thích cho những con người này hiểu được rằng, sống trong sự tương giao với Đức Chúa Trời là tuyệt vời đến dường nào. Anh cảm thấy vài cặp mắt long sòng sọc nhìn như muốn ăn tươi nuốt sống anh và anh trả lời cách quả quyết: “Mười lăm năm qua trong trại lao động đã không làm cho niềm tin tôi bị yếu đi, nhưng nó đã góp phần làm cho mối quan hệ của tôi đối với Chúa Jesus càng khăng khít hơn, và niềm tin tôi lại càng mạnh mẽ hơn bao giờ hết.”

Ngay lập tức, Mao, tuy vừa ra tù, lại bị đánh đập túi bụi bằng đấm đá và gậy gộc. Vào năm 1970, mùa hè năm sau đó, chính quyền địa phương lại ra lệnh bắt giam anh và bắt anh phải tham gia một khóa huấn luyện cải tạo. Tham gia khóa này có phần lớn những kẻ đầu trộm, đuôi cướp, chủ chứa, chủ sòng, và những người khác, đó là những người không muốn hội nhập vào trong xã hội. Những người này hay bộc lộ sự cứng cỏi và bản lĩnh của mình. Nhưng giờ đây, đối diện với bạo lực và chuyên chính của nhà nước, thì trông họ như những võ sĩ bại trận nhục nhã. Họ đi lướt thướt với đôi vai thòng xuống, và một sự bạc nhược tràn ngập trên họ. Mao phải sống chung với họ suốt 73 ngày, và dù họ có thường xuyên khiêu khích hay thậm chí đánh đập anh, anh không để bị mất tinh thần, bất cứ lúc nào thuận tiện anh đã hát và cầu nguyện nho nhỏ. Điều đó không chỉ xảy ra một lần, khi anh đang nhắm mắt trước bát cơm và tạ ơn Đức Chúa Trời về thức ăn, thì những kẻ chung quanh đã lấy mất thức ăn trước mặt anh. Nhiều cú đấm của sự điên khùng và khiêu khích, do bị dồn chứa lâu ngày, đổ lên đầu và thân thể gầy còm của anh.

Một ngày kia, có một tu sĩ Phật giáo nổi tiếng bị bắt giam và bị sắp vào cùng lớp huấn luyện đó. Ông bị rơi vào tình trạng khủng hoảng tột độ, hết sức tuyệt vọng và nản chí, đến nỗi ông đã nghĩ đến chuyện tự kết liễu đời mình.

Một lần nữa tất cả các tù phạm lại bị bắt buộc tham gia một cuộc diễu hành trên đường phố. Trong khi Mao đã nhiều lần tham gia, thì đối với vị tu sĩ, đây là lần đầu tiên ông phải tham gia một cuộc diễu hành như vậy. Trong những ngày đó, những cuộc đấu tố thường là phương tiện thông dụng của sự cải tạo. Một cái mũ dài thòng như mũ thằng hề được đem đội trên đầu các tù nhân, cứ như vậy họ phải đi đi lại lại trên các đường phố, từ sáng sớm đến chiều tối. Trên mũ đề tất cả những tội phạm có thể có của người đó. Dân làng, thường là những người hàng xóm và bạn thân của nạn nhân, hô lên những lời đấu tố họ. Người ta xui trẻ con ném đá vào những “kẻ tội phạm đã thú tội”. Tiếng hoan hô reo hò nổi lên khi có một đứa trẻ chạy ra giữa đường đánh vào tù nhân hay ném rác vào mặt họ. Đó là những giờ rất nhục nhã mà các tù nhân phải chịu đựng.

Vào buổi tối khi họ trở về nơi mình bị nhốt, thì người Phật tử bắt chuyện với Mao và hỏi: “Hôm nay tôi quan sát ông trên đường phố, trông ông bước đi dõng dạc và hiên ngang, làm sao ông có thể quên được điều đang xảy ra quanh mình?” Mao tươi cười trả lời: “Tôi là một người theo Chúa Jesus. Chúa Jesus của tôi đã sống lại từ cõi chết, Ngài có thật và sống, tôi đi đâu thì Ngài cùng đi với tôi. Nhờ được ở bên cạnh Ngài tôi có sự bình an lớn và sự vui mừng vô biên. Đối với ông, không như vậy sao? Vì ông là người theo Phật Thích-ca, thì chắc Phật Thích-ca phải đến và an ủi ông?” Người Phật tử không đáp lại lời đó được.

Vào một buổi chiều đặc biệt nóng bức. Không một làn gió, sức nóng như đè lên mọi người. Mao phải cùng với những tù nhân khác tham gia một cuộc đấu tố. Những cán bộ ra lệnh một vài tù nhân trói nhóm người được đem lên buổi mít-tinh hôm nay. Số tù nhân đi trói tỏ vẻ khoái chí khi được thi thố bạo lực. Chúng siết dây trói thật chặt, đến nỗi làm những người bị trói phải kêu la. Rồi họ được xe tải đem đến một chỗ gọi là D. là nơi tổ chức buổi đấu tố.

Bên cạnh những cuộc cổ động rầm rộ, thì đây là phương tiện thường được dùng trong cuộc cách mạng văn hóa, để chống lại tất cả các phần tử khả nghi của cách mạng văn hóa, hay đơn giản, chỉ vì họ quá giàu, hay học vấn quá cao. Nhưng các Cơ-đốc nhân cũng đặc biệt hay bị lâm vào. Nếu có một cuộc đấu tố được tổ chức, thì trước đó hằng giờ đồng hồ các xe tải chạy qua các đường phố và phát loa phóng thanh, thông báo về thời gian và địa điểm của buổi họp đấu tố.

Sự tham gia là nghĩa vụ. Những bục khán đài được dựng lên tại những nơi xa xôi nhất, ở trong những làng mạc hẻo lánh nhất. Các “tội đã thú nhận” của các nạn nhân được đọc lên cho công chúng nghe. Nó có thể liên quan đến việc chứa chấp một đĩa nhạc Bết-thô-ven, một cái quần ngoài tiêu chuẩn, hay một thái độ mập mờ chống đối đảng. Chiếu theo những lời đó, lính hồng vệ binh hô to lời tuyên án. Những người trong công chúng được yêu cầu bước lên và vạch mặt “phần tử tội phạm”.

Có những người cha, người mẹ bị những con trai, con gái của họ tố giác; có những học sinh ném vào mặt các thầy cô giáo mình mọi tội tùy ý thích, như một sự trả thù cho bản thân, có lẽ vì thầy cô đã có lần đánh trượt chúng, hay là, trong quá khứ đã làm cho chúng bị mất mặt trước bạn bè.

Vào giờ khắc được ấn định trước, có tiếng hô từ trong đám đông: “Đủ rồi, chúng tôi muốn sự công chính!” Những người khác hùa theo. Rồi tất cả cùng la to: “Sự công chính! Sự công chính!” Một cán bộ hỏi qua loa phóng thanh đặt ở trên xe tải: “Có tội hay không có tội?” Khung cảnh giống như một sự đánh cá cược, xem ai là tội to nhất. Chính mình mà không tham gia vào, cũng đồng nghĩa với sự phải tự quỳ trên khán đài, trước đám đông, để tiếp nhận “sự công chính”.

Mao và những tù nhân khác được chở trên một xe thùng đến chỗ mít-tinh. Anh và mọi người cùng đi có thể nhìn thấy từ xa một số đông người đang tụ tập chung quanh một khán đài được dựng gấp lên bằng những tấm ván. Theo thứ tự, Mao là người đầu tiên. Anh bị kéo xệch lên trên một cách dã man. Những cán bộ đảng, từng người một bước ra và gán cho anh các tội phạm và là những tội hung bạo ghê tởm nhất. Sau đó, họ yêu cầu anh phải tuyên bố ly khai khỏi niềm tin của mình trước đám đông đang tập họp tại đó, và chối bỏ sự thực hữu của Chúa Jesus. Hơn nữa, họ còn đe dọa anh: “Nếu ông còn tiếp tục giữ niềm tin vào Chúa Jesus thì hôm nay chúng tôi sẽ đánh ông cho đến chết!”

X. Mao vươn thẳng người ra và nhìn vào mắt quần chúng đang chờ đợi. Anh im lặng trong giây lát, trong khi anh xin Đức Thánh Linh ban cho mình những lời cần thiết để anh nói cùng thính giả: “Thưa Đức Thánh Linh yêu dấu! Con xin Ngài hãy nhận trách nhiệm về mọi sự bây giờ sẽ diễn ra.” Đó là những lời cầu nguyện thầm của anh. Sau đó, anh tập trung vào đám đông trước mình, ánh mắt anh ngời sáng và anh nói bằng một giọng dõng dạc vào mi-rô: “Kính thưa bà con cô bác, bởi vì tôi tin Chúa Jesus nên tôi đã phải chịu mười lăm năm trong trại cải tạo lao động ở H.. Ở đó, tôi đã thường xuyên bị đánh đập và tôi đã kinh nghiệm qua những buổi đấu tố như thế này. Dù vậy, thì đức tin tôi qua đó càng vững chắc hơn. Quý bà con cô bác muốn biết vì sao không? Chúa Jesus là Đấng tôi tin. Ngài là Thiên Chúa có thật và hằng sống. Ngài là Con của Đức Chúa Trời, trời và đất do Ngài dựng nên. Ngài được sinh ra như một con người vì cớ chúng ta, và vì tội lỗi chúng ta Ngài bị giết trên thập tự giá. Qua đó, Ngài đã mở cho mỗi một người con đường đến với Thiên Chúa, xuất phát từ tình yêu của Ngài đối với chúng ta, bởi vì Đức Chúa Trời muốn cứu vớt mỗi một chúng ta. Quý bà con cô bác hãy quên những thần tượng của mình đi, và hãy tin vào Chúa Jesus, thì Ngài sẽ ban cho quý bà con cô bác sự sống đời đời.”

Khi những kẻ kết án anh thấy vậy, thì họ đâm bổ vào anh điên cuồng như dã thú. Cùng một lúc mười chín tên đấm đá anh liên hồi. Một số kẻ khác liên tục đánh vào mặt vào đầu, còn kẻ khác đánh trên thân thể anh. Những kẻ khác dùng giày mà đạp lên thân thể, lên ngực anh. Bỗng nhiên những người chung quanh nghe thấy giọng của Mao vang lên rõ ràng: “Chúa ơi! Hãy tha tội cho họ! Chúa ơi! Con xin giao linh hồn con vào trong tay Ngài.” Rồi Mao từ từ ngã gục xuống trên khán đài.

Mặc dù bị chấn thương nặng nhưng Mao không chết, trong vài tuần sau, anh được hồi phục. Cha của Mao vốn ở một làng nhỏ trên núi, là nơi hầu hết những bà con anh đang sinh sống. Khi họ hàng nghe tin rằng, Mao sống không xa họ lắm và chỗ anh ở thường xuyên bị công an, chính quyền tấn công, thì họ tìm mọi cách để xin cho anh được về ở cùng chỗ với cha anh. Dù được chấp thuận cho chuyển chỗ ở nhưng không phải vì vậy mà anh thoát được sự bắt bớ. Chỉ ít ngày sau khi chuyển về chỗ ở mới, anh đã bị bắt giam, bị giải đến trước mặt chính quyền địa phương và bị giam giữ, tra khảo trong nhiều ngày liền. Họ muốn biết kết quả của sự huấn luyện cải tạo anh về chính sách chính trị và tôn giáo đã đi đến đâu. Kết quả đã khiến cho cấp lãnh đạo không hài lòng. Một cuộc vận động quần chúng công khai được tổ chức ngay trong sân làng. Cả làng phải đến dự từ khi sáng sớm. Những cán bộ tường thuật cho dân chúng nghe về quá khứ “phản cách mạng” của Mao. Sau đó, họ tuyên bố thời gian của cuộc đấu tố: “Vào lúc tám giờ sáng mai sẽ có buổi họp đấu tố ở D., chúng tôi muốn tất cả dân làng phải có mặt.”

Ở vùng này đã từng có nhiều Hội Thánh Cơ-đốc lớn mạnh và hoạt động từ nhiều năm nay. Những Cơ-đốc nhân đã trải qua nhiều sự bắt bớ, dù vậy, điều đó không làm lu mờ tình yêu nhiệt thành và triệt để của họ đối với Chúa Jesus. Bây giờ, khi họ nghe rằng con người của Đức Chúa Trời này đang đứng trước một cuộc đấu tố, thì họ lập tức bắt đầu cầu nguyện và kiêng ăn ráo riết cho anh. Họ quyết định sáng ngày mai sẽ có mặt ở buổi đấu tố, để ủng hộ anh bằng sự cầu nguyện và sự có mặt của họ. Vậy nên, vào sáng sớm hôm sau, trước giờ khai mạc rất lâu, đã có một đám đông những con người nhóm lại chung quanh khán đài, là nơi sẽ xảy ra màn kịch, trước khi những công an đem “tù phạm” đến.

Sau đó, những người tổ chức màn kịch đã đến. Họ giải theo X. Mao bị trói chặt. Cùng với súng ống đã lên đạn sẵn sàng, họ đem anh lên khán đài. Khi Mao nhìn lướt qua chung quanh, anh kinh ngạc nhận ra nhiều khuôn mặt trìu mến quen thuộc đứng quanh mình. Những người chờ đợi chung quanh không phải là những người buộc tội và thanh trừng anh, mà đó là những anh chị em cùng đức tin. Người chăn địa phương ngồi ngay hàng ghế đầu tiên. Ông gật đầu chào anh, ánh mắt ông chan chứa sự an ủi và thông cảm. Mao cảm nhận được uy quyền và sự hiện diện của Đức Chúa Trời khi anh nhìn vào ánh mắt của người chăn. Dường như họ ngầm báo tin cho nhau: “Không, chúng ta không lẻ loi và vô vọng đâu, Đức Chúa Trời ở cùng chúng ta. Nếu có ai tấn công chúng ta, thì sẽ không thành công, vì nó xảy ra ngoài ý muốn của Đức Chúa Trời. Nếu ai tấn công chúng ta thì rơi vào sự tấn công chống lại Đức Chúa Trời. Những vũ khí chế ra chống lại chúng ta sẽ không được thành công. Chúng ta sẽ định tội mọi lưỡi dấy lên cáo kiện chúng ta” (Ê sai 54:17). Mao nhướng thẳng người lên, anh cảm thấy năng quyền và sự xức dầu của Đức Thánh Linh đến trên mình và mạnh hơn tất cả những gì con người có thể làm hại anh. Một tên lính xô Mao lên phía trước, giơ cao tay phải hắn lên và bắt đầu hô khẩu hiệu: “Đả đảo Mao là tên phản cách mạng. Chúng ta không dung chứa một sự mê tín dị đoan tôn giáo nào.” Nhưng chỉ có vài giọng rời rạc từ trong đám đông cùng hô khẩu hiệu với hắn. Điều sau đó xảy ra giống như trong các buổi đấu tố trước mà Mao đã phải trải qua. Trước hết, một viên chỉ huy bắt đầu chửi rủa Hội Thánh. Hắn kết tội Mao đội lốt tôn giáo, hoạt động phản cách mạng. Sau đó, hắn ra lệnh cho anh nhận tội và phải tuyên bố chối bỏ đức tin vào Chúa Jesus.

Những Cơ-đốc nhân đứng trước khán đài kinh ngạc, vì thấy có một ánh hào quang của Đức Chúa Trời chiếu trên gương mặt của Mao. Anh từ từ bước lên mi-rô, và bắt đầu nói: “Tại sao các ông không lấy con dao và moi trái tim tôi ra, thì các ông có thể thấy được thật cái gì đã chứa đựng trong nơi sâu thẳm nhất của lòng tôi?”

Sau những lời nói đó, anh bắt đầu hát lên với giọng trong trẻo. Loa phóng thanh phát đi vượt ra xa ngoài sân làng, hầu như cả làng đều nghe thấy. Những Cơ-đốc nhân trước khán đài nhận thấy sự hiện diện của Đức Chúa Trời, ở trên sân bãi, và nhiều người bắt đầu khóc. Sau đó, tất cả đều lần lượt cùng đồng thanh hát, và như một dàn xướng ca vĩ đại họ cùng nhau hát:

Tôi muốn trung thành với điều được giao cho tôi
Tôi muốn trung thành với Chúa yêu dấu của tôi
Hãy ban cho con sức mạnh để trung thành với Ngài
Cho dù không còn ai nữa đi theo Ngài
Và con đường tôi đi qua những sự gian khó
Thì tôi vẫn đứng vững bên cạnh Chúa tôi
Chúa của tôi luôn luôn muốn thấy tôi trung tín

Khi những người công an nhận định được tình hình, thì trước hết họ bối rối và không biết nên xử trí ra sao. Họ không những đã nhìn thấy và nghe lời hát của những người mà đáng lẽ sẽ nguyền rủa và lên án tù nhân, mà còn cảm thấy bầu không khí của sự bình an, sự hiệp một và tình yêu, đó là điều khiến họ không chịu đựng nổi. Những tên lính vũ trang trên khán đài chờ đợi cách vô vọng xem sẽ có ai can thiệp vào. Thật là nhục nhã! Mồ hôi tuôn đổ trên trán họ. Nếu rốt cuộc có sự gì đó xảy ra, thì điều đó cũng như một sự giải cứu, tức là khi có một vài người có trách nhiệm gạt đám đông đi lên, đẩy Mao xuống khỏi khán đài và đem anh đến văn phòng trung tâm của chính quyền địa phương. Những Cơ-đốc nhân nhóm lại, cảm tạ Đức Chúa Trời vì sự can thiệp của Ngài, họ nghĩ rằng sự việc chắc là đã trôi qua và ai nấy trở về nhà mình.

Nhưng phòng công an an ninh vẫn chưa xong kế hoạch của họ. Các cán bộ an ninh sôi sục sự giận dữ và căm thù. Dám cả gan làm mất mặt họ giữa nơi thanh thiên bạch nhật. Mao đã khiến cho họ trở thành trò hề. Bọn họ chắc chắn sẽ không chịu ngồi yên vì chuyện này. Họ nghĩ rằng dù sao đi nữa thì rốt cuộc họ cũng vẫn là những người cầm đằng cán. Vậy thì tên Cơ-đốc nhân này đừng hòng sống sót được. Vào buổi chiều cùng ngày hôm đó, Mao bị trói chặt bằng một sợi dây ni lông mỏng tanh. Những viên công an đã dùng hết sức bình sinh mà siết những sợi dây thật chặt, đến nỗi nó cứa đứt khắp người anh. Mao bủn rủn vì đau đớn. Bây giờ sẽ diễn ra một cuộc diễu hành. Mao phải đội một cái mũ hề nhọn đấu, bị giải đi qua các đường phố, có các công an vũ trang vây chung quanh. Có nhiều kẻ hiếu kỳ tham gia vào đoàn người, nhưng không có ai trong số họ là Cơ-đốc nhân. Những học sinh của trường phổ thông cơ sở và trung học đang trên đường về nhà, đều theo sau Mao và cùng tung hô khẩu hiệu:

“Đả đảo mọi kẻ thù giai cấp!”
“Hãy diệt trừ X. Mao, tên chống cộng!”
“Tước quyền những phần tử phản động!”
“Đảng cộng sản muôn năm!”

Mao bước đi hiên ngang và đường hoàng giữa đám đông hỗn loạn. Trong ý thức, anh biết chắc rằng, mình không đơn độc. Chúa Jesus đi cùng với anh. Sau khi họ đã nhiều lần đi qua, đi lại trong vùng, thì những viên chỉ huy hỏi anh: “Anh có tiếp tục tin Chúa Jesus hay không?” Mao đã trả lời không hề lưỡng lự: “Tôi tin và tôi sẽ còn tin cho đến hết cuộc đời tôi”. Ngay khi anh nói chưa dứt câu, đã có kẻ dùng búa đập lên đầu anh. Máu chảy ra từ vết thương, chảy lên tóc và lên áo anh. Sau vài bước, bọn chúng lại hỏi anh: “Anh muốn tin đến bao giờ?” Anh trả lời sang sảng và dõng dạc: “Tôi tin, và dù các ông có đánh tôi chết, tôi vẫn tin.” Những tên lính lại đánh anh bằng búa và các bướu to tiếp tục sưng lên trên đầu anh. Trong khi anh bước đi, bọn họ đánh anh không ngừng. Chẳng mấy chốc, trên đầu anh đầy những thương tích và khối u. Sau khi đoàn người bước đi như vậy chừng nửa cây số, thì đầu anh sưng to và máu khô đọng cứng lại bởi những trận đòn, đến nỗi mắt anh hầu như không mở lên được nữa, vì mặt đã bị sưng vù.

Cứ như thế, đoàn người đi qua một quầy hàng, trước cửa quầy hàng đó là một đống đá xanh, chất cao lởm chởm. Các tên chỉ huy dùng dao nhọn bắt anh phải tiếp tục đi tới, trèo qua đống đá đó mà đi. Nhưng vì hai tay Mao bị trói chặt, nên anh bị mất thăng bằng và trượt ngã trên những hàng đá nhọn, không có gì chống đỡ, khiến anh bị gãy vài cái xương sườn. Những kẻ hành hạ anh lại lôi anh đứng dậy và bắt anh đi tiếp tục. Bây giờ khuôn mặt anh ướt đẫm mồ hôi, trở nên trắng bệch, anh thở hổn hển và máu trào ra từ miệng. Anh phải đi tiếp như vậy dưới những trận đòn. Đoàn người đi ngang qua một hố xí công cộng. Thật ra, những người có trách nhiệm muốn ném anh xuống hố phân sâu hơn hai mét đó. Nhưng vì cớ đoàn người đi xem đã trở nên rất đông, nên họ không dám làm điều đó. Thay vào đó, họ ném mũ của Mao xuống hố phân. Họ dùng một gậy tre tẩm nó trong phân người, và đội nó lên đầu Mao đang đầy các thương tích. Phân người, nước tiểu chảy trên đầu, tràn trên gương mặt và trên lưng anh, cho đến khi cái áo sơ mi anh bị ướt sũng.

Trong khi tiếp tục giải anh đi như vậy, một tên công an lấy hai cây tre, gắp phân chó và tìm cách nhét vào miệng Mao. Bởi vì anh ngậm chặt miệng lại nên hắn đã bôi trét phân chó hôi thối lên trên mồm và môi của anh. Khi Mao mở miệng để thở lấy hơi, thì một ngụm máu tươi đã trào ra khỏi miệng anh. Không biết con người còn có khả năng tàn bạo đến đâu nữa!

Cuối cùng, họ đem Mao đến một gốc cổ thụ, và treo anh tít lên cao, ném đá vào anh, sỉ nhục anh, nguyền rủa anh. Nhưng lúc ấy, Mao đã bất tỉnh rồi. Khi trời gần tối, họ đem anh xuống khỏi cây, ném thân thể không còn động đậy gì nữa của anh bên vệ đường, và ai về nhà nấy. X. Mao nằm đó, bất động và trơ trọi, những tia nắng cuối cùng trong ngày chiếu trên gương mặt anh, khuôn mặt đã bị hành hạ đến nỗi không còn nhận dạng được nữa, nhưng trên những đường nét của nó, vẫn còn có thể thấy sự cương quyết không thỏa hiệp còn đọng lại.

Lúc trời đã tối, những Cơ-đốc nhân trong làng mới nghe tin, đã vội vã chạy đến kiếm Mao. Họ đem Mao, vẫn còn bất tỉnh, về nhà của một gia đình trong Hội Thánh. Họ cẩn thận lau rửa những vết thương cho anh và đặt anh trên chiếc giường êm nhất của họ. Có nhiều tín đồ đã đến và đứng khóc trong phòng. Họ cùng nhau cầu nguyện với Đức Chúa Trời, xin Ngài cứu sống con người lão thành và bất khuất này. Đến khoảng nửa đêm, Mao dần dần tỉnh lại. Tuy anh không mở mắt lên được, nhưng anh nghe thấy tiếng khóc và cầu nguyện của những người vây quanh mình. Anh cố gắng nói một cách khó nhọc: “Anh chị em thân yêu, xin đừng khóc cho tôi, nhưng hãy khóc vì sự chống nghịch của nhân dân ta. Hãy khóc cho dân tộc của chúng ta còn vô tín, khóc cho những người lãnh đạo của chúng ta còn vô thần.” Những lời nói của anh làm cho các tín đồ xúc động sâu sắc, khiến họ càng cầu nguyện khẩn thiết hơn nữa.

Trong những tuần lễ tiếp theo, Mao được phòng công an để cho yên, cộng với những lời cầu nguyện và những sự chăm sóc ân cần của các con cái Chúa mà anh được bình phục trở lại. Còn mười tám năm nữa đang chờ anh. Trong những năm sau đó, anh đi hầu việc Chúa không mệt mỏi. Anh đến thăm các Hội Thánh, khích lệ các Cơ-đốc nhân và đem những con người chưa biết Chúa Jesus đến với tình yêu của Ngài.

Cuộc đời của X. Mao không những chỉ đánh dấu bằng những biến cố đau thương, những chịu đựng gian khổ, nhưng trước hết còn được đánh dấu bằng sự kính sợ của ông trước Đức Chúa Trời Hằng Sống, qua sự trung tín và niềm vui dạt dào bên trong. Kể từ thời gian ông ở trong trại khổ sai lao động ở miền bắc Trung Quốc, ông đã có thói quen thức dậy sớm mỗi sáng để cầu nguyện cho đất nước, cho dân tộc, và cho Hội Thánh mình. Ngay cả trong những năm sau ở quê nhà, khi phải chịu đựng nhiều sự bắt bớ, ông vẫn trung tín với thói quen này. Cho tới lúc chết, người ta có thể thấy ông mỗi ngày cầu nguyện trước khi mặt trời mọc. Sau giờ cầu thay, ông dành nhiều thời gian, từ buổi sáng này, qua buổi sáng khác để đọc Thánh Kinh dưới ánh sáng yếu ớt của ngọn đèn dầu. Nhiều đêm, ông không muốn đi nằm. Ông thường bỏ những buổi ăn để có thể đọc Thánh Kinh. Vì ông đã dành nhiều thời gian cho việc học Lời Chúa nên ông đã rất thông thạo và thuộc lòng rất nhiều đoạn Thánh Kinh dài. Dù vậy, ông không bao giờ thỏa mãn với những gì mình đã biết từ Thánh Kinh, ông còn lợi dụng mọi cơ hội để học hỏi nơi các Cơ-đốc nhân khác bằng sự hạ mình.

Thỉnh thoảng, nếu trong khi học Thánh Kinh có một chương đoạn đặc biệt cảm động ông, Đức Thánh Linh giải thích Lời Ngài cho ông và làm cho lời đó trở nên sống, thì ông mừng rỡ đến nỗi nhảy tung lên và bắt giọng một bài hát, nhảy múa vòng quanh phòng. Mặc dù ông không lấy vợ sau lần li dị và chưa hề có con, và mặc dù đời sống ông trong những năm tháng ở trại lao động khổ sai không phải là nhẹ nhàng, và sau đó ông cũng hay đi công tác khắp nơi trong nước như một người rao giảng Tin Lành, mặc dù nhiều lần mọi sự đe dọa bị bắt giam lại và mọi sự bắt bớ gian nguy luôn rình rập ông, mặc dù vậy cuộc đời ông vẫn được đánh dấu bằng một niềm vui mừng lớn. Nếu ông là khách ở bất kỳ đâu, thì những người hàng xóm ở đó có thể nghe thấy tiếng ông hát, khi ông càng già, giọng ông càng dõng dạc hơn. Ông là một con người có thể hát, cười, và khóc bằng cả trái tim. Cùng với một người bà con cũng là Cơ-đốc nhân, và là một người bạn thân của ông, cả hai có thể thức thâu đêm đến sáng. Sau đó, họ kể cho nhau nghe những gì mình đã kinh nghiệm được từ Đức Chúa Trời, khích lệ lẫn nhau và cùng nhau đọc Thánh Kinh, cùng nhau hát tôn vinh Chúa. Bài hát mà họ yêu thích, thường cùng nhau hát đi hát lại hằng tiếng đồng hồ, có những lời như sau:

Khi tôi đắm chìm trong biển đời tội lỗi
Trong sóng cuồng khổ đau, mưa tuôn buồn bã
Những đêm đầy tiếng hú chó rừng
Thì trái tim tôi đầy sợ hãi
Tôi tê dại vì nỗi kinh hoàng
Đầy bụi gai khô, những rừng núi hoang vu
Thung lũng ngàn heo hút
Tôi mong mỏi trở về đàn
Tình Yêu Diệu Kỳ đã tìm và gặp tôi
Huyết Báu Diệu Kỳ đã rửa sạch tôi
Ân Điển Diệu Kỳ đã đem tôi trở về đàn
Ân Điển Diệu Kỳ đã đem tôi trở về đàn

Những Chủ Nhật đối với X. Mao là những ngày hội. Ông thường dùng những ngày này cho sự tự do để thưởng thức sự tương giao với Đức Chúa Trời, với Lời Ngài, và với những Cơ-đốc nhân khác. Trong toàn bộ cuộc đời theo Chúa của ông chỉ có bốn lần ông không đi thờ phượng Chúa. Tất nhiên ngoại trừ thời gian mười lăm năm ông ở trong trại khổ sai.

Trong vòng mười tám năm cuối đời, cuộc sống của Mao trở nên bớt căng thẳng hơn nên ông có thể dành nhiều thời gian và sức lực vào sự truyền bá Tin Lành. Trong tất cả mọi việc, ông được mọi người tín nhiệm. Ông thường xuyên đặt mình dưới sự hướng dẫn của Đức Thánh Linh và sự vâng phục Hội Thánh. Nếu Đức Chúa Trời bảo ông đi đến một vùng nào đó, thì ông luôn luôn lên đường ngay, cho dù đó là những vùng rất xa xôi hiểm trở.

Nhiều năm liền, ông đã đi đến các địa phương vùng núi V., là nơi không chỉ khó đi lại thôi, mà còn nguy hiểm nữa, nhất là vào mùa đông những con đường nhỏ, cheo leo trên dốc núi, bị phủ băng tuyết. Nhưng ông không quản ngại gian khổ, lúc bão tuyết ông cũng lên đường thăm viếng các Cơ-đốc nhân và giảng cho họ về Chúa Jesus; nên Tin Lành về Chúa Jesus lan rộng trên khắp vùng núi V., và có nhiều Hội Thánh mới mọc lên khắp nơi.

Ông rất kỷ luật và cẩn thận về những điều ông nói và làm. Ông ghét mọi loại tội lỗi và ông là một tấm gương trong mọi việc cho các Cơ-đốc nhân. Lối sống của ông rất bình dị, ông không bao giờ thích sự nhàn rỗi hoặc sự tán gẫu. Ông ăn uống đơn giản, khoai lang và rau quả, ông ăn mặc không cầu kỳ và sống trong một túp nhà nhỏ, đơn sơ. Dù vậy, ông vẫn cho cách sống của mình như vậy là “lãng phí” (khi so với sự đói khổ của bao người dân Trung Quốc). Ông mang một tình yêu sâu đậm đối với các con cái Chúa trong Hội Thánh. Ông quan tâm đến gia đình họ, sự lớn lên về thuộc linh của họ trong đời sống hàng ngày. Ông nhắc nhở họ bằng tình yêu thương, ông săn sóc họ và thấy mình có trách nhiệm đối với họ.

Trước khi Mao qua đời, ông nằm liệt giường tám mươi ngày. Hàng ngày, nhiều Cơ-đốc nhân từ mọi nơi đến thăm ông. Mặc dù ông không có con theo xác thịt, nhưng ông là người cha thuộc linh của nhiều con trai và con gái. Những đứa con đó đã khiến cho đời sống ông đầy sự vui mừng. Ông chết vào ngày mười bảy Tháng Mười năm 1989. Một cuộc đời hạnh phúc đầy đủ và rất thành công. Hơn nghìn người đã đến dự lễ an táng ông. Tất cả họ đều yêu mến ông già này và đều muốn noi theo tấm gương của ông.

Khi họ thả chiếc hòm xuống huyệt, thì tất cả cùng đồng thanh hát bài:
“Chúng ta vui mừng đón Chúa Jesus đến, cuộc hội ngộ long trọng thay!” Tiếng hát của những người yêu mến con người của Đức Chúa Trời này vang vọng toàn thung lũng.

Khi các môn đệ của Chúa Jesus rời khỏi đất, thì họ về nhà
Bạn bè họ thương khóc, còn họ sung sướng nhất
Chúa Jesus gánh tội lỗi họ, Ngài đổ huyết mình
Và Ngài sẽ trở lại, ôi sự hội ngộ thật long trọng thay
Chúng ta chỉ chia ly giờ đây, không phải là mãi mãi
Rồi chúng ta sẽ ở cùng nhau!

Xin đọc tiếp: Hoa Huệ Giữa Chông Gai – 02
https://timhieutinlanh.com/hoa-hue-giua-chong-gai-02/

Hoa Huệ Giữa Chông Gai – 02