Những Bí Ẩn Đàng Sau Hiện Tượng “Đức Mẹ Maria Hiện Ra” – Phần 1

8,084 views

Đặng Vũ Thanh Nguyên

Nhấp vào đây để download bài viết này

Những Bí Ẩn Đàng Sau Hiện Tượng “Đức Mẹ Maria Hiện Ra”
Tại Lourdes, La Salette và Fatima

Lourdes

Một thành phố ở cực nam nước Pháp thuộc tỉnh Hautes-Pyrénées. Tiếng Việt phiên âm là Lộ Đức. Ngày 11.2.1858, cuộc sống êm đềm buồn tẻ của thành phố này chợt náo nhiệt khi một cô gái 14 tuổi Bernadette Soubrirous loan báo tin mình đã gặp một phụ nữ lạ, xuất hiện tại hang đá nhỏ Massabielle bên bờ sông Pau, phía tây thành phố, xưng mình là đấng “Vô Nhiễm Nguyên Tội!” Chính quyền địa phương vào thời điểm đó sau khi điều tra cặn kẽ mọi sự kiện đã bác bỏ tà thuyết về sự xuất hiện của đấng “Vô Nhiễm Nguyên Tội.” Tuy nhiên, bởi áp lực mạnh mẽ đến từ Eugénie de Montijo, vợ của Napoléon III, người Công Giáo, của Giám Mục Laurence quản nhiệm giáo phận và của Vatican; đã khiến chính quyền địa phương phải lui bước. Từ đó, đấng “Vô Nhiễm Nguyên Tội” được cải danh thành Đức Mẹ Maria. Năm 1862, ba “thánh đường” đã được xây dựng là:

  • Vương Cung Thánh Đường Đức Mẹ Mân Côi
  • Vương Cung Thánh Đường Đức Mẹ Vô Nhiễm
  • Vương Cung Thánh Đường Thánh Pius X

Ngày nay, Lourdes có khoảng 15.000 cư dân, sống chủ yếu bằng việc kinh doanh du lịch nhờ các khách hành hương. Với khoảng 230 khách sạn, Lourdes là thành phố có nhiều khách sạn thứ ba trong nước Pháp (sau Paris và Nice). Các tiệm ăn, tiệm bán hàng lưu niệm cùng các dịch vụ khác mọc lên khắp thành phố.

La Salette

Ngày 19 tháng 9 năm 1846, khoảng 15 giờ trong ánh nắng mặt trời buổi chiều trên một sườn đồi gần làng La Salette-Fallavaux (nằm trong dãy núi Alpes); hai đứa trẻ chăn cừu, một mặc áo lông trừu tên Melanie Calvat mười lăm tuổi, một tên Maximin Giraud mười một tuổi, cả hai đều rất dốt nát, thấy một ánh sáng chiếu vào một phụ nữ xinh đẹp mặc một trang phục lạ. Người nữ nói chuyện với chúng bằng tiếng Pháp và thổ ngữ địa phương. Theo lời kể của hai đứa trẻ, người nữ đó muốn chúng thay cô phổ biến cho người dân thông điệp của cô là “Ta đến để báo với mọi người rằng những ai bất kính với ta, với đức tin Công Giáo sẽ bị trừng phạt.”

Nhiều sự tranh cãi sôi nổi đã diễn ra vào thời điểm đó giữa giáo hội Công Giáo và những nhà khoa học, giáo dục, chức trách. Cho đến khi hai đứa trẻ đột nhiên biến mất và với sự can thiệp của giáo hoàng Pie IX; Giám Mục Bruillard tuyên bố ngày 16 Tháng 11 năm 1851 rằng sự xuất hiện của Đức Trinh Nữ đã được khẳng định, và ông đã cho phép các giáo đường Công Giáo thờ phượng “Đức Mẹ của Salette.”

Ngày 01 tháng 3 Năm 1875, Maximin Giraud trở về làng cũ và mất ở đấy sau nhiều tháng năm sống lang thang, vô gia cư, vô nghề nghiệp, không gia đình, con cái. Melanie Calvat cũng đã kết thúc cuộc sống sau nhiều năm sống vất vưởng ở Altamura (Italy) vào ngày 15 Tháng 12 năm 1904.

Fatima

Fatima là một thị trấn nhỏ của người Bồ Đào Nha nằm ở khu Santarém. Thị trấn Fatima trở nên nổi tiếng vào năm 1917 khi ba em bé chăn chiên: Lucia dos Santos, 10 tuổi; Francisco Marto, 9 tuổi; và cô em Jacinte Marto, 7 tuổi; báo cáo có nhiều lần Đức Trinh Nữ Maria đã hiện ra với chúng. Cả ba đứa trẻ đều nói rằng “Đức Trinh Nữ Maria” đã yêu cầu mọi người hãy lần tràng hạt cầu nguyện hàng ngày cho hòa bình. Ba đứa trẻ còn nói rằng trong năm 1915-1916 đã có một thiên thần khác đến cầu nguyện với chúng để chuẩn bị cho sự giá lâm của “Đức Trinh Nữ Maria!”

Từ trái qua phải: Jacinte 7 tuổi, Francisco Marto 9 tuổi, Lucia dos Santos 10 tuổi

Ngày 13 tháng 5 năm 1928, một giáo đường rất lớn với toà tháp cao hơn 65 thước đã được dựng lên để làm nơi thờ phượng “Đức Trinh Nữ Maria.” Ngày nay, trong giáo đường này, chúng ta có thể thấy ngôi mộ của ba mục đồng. Francisco Marto và Jacinta Marto, mất tương ứng vào năm 1919 và 1920 và được phong thánh vào năm 2000. Lucia dos Santos, chết trong năm 2005.

Ở Việt Nam cũng có huyền thoại “Đức Mẹ Maria” hiện ra ở La-Vang vào năm 1798. Nguyễn Đệ, trong bài “Dưới Bóng La Vang” đăng trong Dân Chúa Âu Châu số 1/1982 trang 38-39 đã viết: “Đức Mẹ bất thần xuất hiện trong một ánh hào quang chói lọi, mặc Việt phục, vai khoác một chiếc áo quàng trắng toát, tay bồng Chúa Hài Đồng, phong thái uy nghi mà hiền hậu, giản dị mà trang nghiêm, lộng lẫy mà nhân từ…”

Linh Mục Stanislas Nguyễn Văn Ngọc (Tổng Đại Diện, Huế) đã nghiên cứu nhiều về tính cách lịch sử của các việc “Đức Mẹ” hiện ra tại La Vang. Trong sách Linh Địa La Vang (1970) ông viết (trang 35-36): “Trong lúc lánh nạn tại đây, ban đêm họ họp nhau cầu nguyện và lần chuổi. Bỗng nhiên họ thấy một bà đẹp đẽ mặc áo choàng vàng lộng lẫy hiện ra gần một cây đa đại thụ, mà họ nhận biết ngay là Đức Mẹ, vì có bồng Chúa Hài Đồng, hai bên có 2 thiên thần cầm đèn chầu.”

Trong bài “Ơn Lạ của Đức Mẹ La Vang” linh mục Hồ Ngọc Cẩn có viết: “Năm 1830, chuyện kể rằng Đức Mẹ đã mua vải để trang hoàng bàn thờ…”

Chưa kể những sự xuất hiện của “Đức Mẹ Maria” ở Tà Pao, Phan Thiết. “Đức Mẹ Bãi Dâu,” Bà Rịa. “Đức Mẹ Trà Kiệu,” Đà Nẵng. “Đức Mẹ La Mã,” Bến Tre (Giáo phận Vĩnh Long) v.v… Đó là chuyện khác, trong bài viết này, tôi chỉ trình bày ba hiện tượng “Đức Mẹ Maria Hiện Ra” tại: Lourdes, La Salette và Fatima.

Lời Nói Đầu

Những kẻ trục lợi tôn giáo và mua bán ảo tưởng

Trong bài viết này tôi chỉ giữ vai trò đi tìm tài liệu và chú giải. Tôi sẽ không có một lời phê phán vì tôi muốn để lại phần này cho quí vị độc giả, quí anh chị em con cái Chúa tự đưa ra quan điểm riêng của mình. Vấn đề phê phán hay ý kiến là do ở cá nhân của người đọc. Tôi miễn bàn.

Tôi cũng sẵn sàng hứng chịu mọi nguồn công kích từ mọi phía bởi tôi nghĩ rằng, đã là con cái Chúa, chúng ta phải thẳng thắn. Vì một trong mười điều răn của Đức Chúa Trời là cha yêu kính của chúng ta đã dạy chúng ta không được nói dối và trong Ê phê sô 4:25 cũng có nói: “Như vậy, mỗi người trong anh em phải chừa sự nói dối, hãy nói thật với kẻ lân cận mình, vì chúng ta làm chi thể cho nhau.”

Tài liệu đa số được tìm thấy trong các bài báo, các văn kiện điều tra của cảnh sát địa phương, các hồ sơ lưu của các trung tâm dữ liệu Pháp và Bỉ. Các văn bản, tài liệu bàn luận về Lourdes và sự chữa bệnh kỳ diệu của nó đã xuất hiện với số lượng rất lớn từ năm 1858, sau khi diễn ra sự “xuất hiện” của “Nữ Đồng Trinh Maria” với Bernadette Soubirous; trong khi chỉ cần một tài liệu duy nhất dựa trên các thông tin của báo chí, các báo cáo điều tra của cảnh sát, các nhân chứng sống ở nơi được gọi là có sự xuất hiện của người “Nữ Đồng Trinh Maria” và những chứng nhân, thân nhân quen biết với Bernadette Soubirous cũng đủ để thay thế cho cả một khối lượng khổng lồ giấy bút nói về sự xuất hiện đó.

Tuy nhiên, chủ đề này vẫn luôn luôn là một đề tài nóng bỏng. Đã đem lại không ít lợi ích cho những ai thực sự muốn tìm hiểu sự thật dưới một góc độ khách quan. Thế nhưng trong suốt 150 năm qua từ khi hiện tượng “Nữ Đồng Trinh Maria” và Bernadette Soubirous được dựng lên đã có cả trăm, cả ngàn nguồn dư luận đối nghịch nhau! Thậm chí, sau này các văn kiện trình bày sự thật đã bị ém nhẹm cho mãi đến sau đệ nhị thế chiến, hồ sơ mới được “hâm nóng” trở lại.

Gần 100 năm (1858-1950) là thời gian quá dài để cho những thế lực buôn thần, bán thánh thao túng đức tin của hàng triệu tín đồ. Nếu chúng ta khách quan nhìn vào vấn đề, một câu hỏi sẽ được đặt ra: “Ai sẽ là ngư ông thủ lợi?” từ đó, chúng ta sẽ lần ra được đầu mối của sự thật.

Có một nhận xét rất rõ ràng: trong suốt 150 năm qua, nhất là vào khoảng 100 năm đầu tiên sau khi xảy ra “hiện tượng” đã có rất nhiều sách, báo đã tiểu thuyết hóa tiểu sử của “Thánh Bernadette,” người đã có công rất lớn để dựng nên một loại hàng tồn kho của “phép lạ,” của những điều bí ẩn về “Lourdes.” Ngay sau khi Bernadette Soubirous tuyên bố gặp “Đức Mẹ Đồng Trinh.” Cả một guồng máy nghiên cứu lịch sử, truyền thông liên quan đến sự xuất hiện của “Đức Mẹ” đã được Vatican cho ra đời trên toàn lãnh thổ Âu Châu để tuyên truyền, vận động và thêu dệt “huyền thoại.”

Đối với bất cứ ai có theo dõi thời cuộc chính trị thế giới hẳn sẽ không ngạc nhiên về  sức mạnh tài chính khổng lồ mà Vatican đã có, hiện có. Vatican với tổng số 558 công dân kể cả giáo hoàng, bao gồm:

  • 58 Hồng y
  • 293 linh mục, giáo sĩ làm công tác đối ngoại
  • 62 giáo sĩ phục dịch
  • 101 vệ binh
  • 43 nhân viên phục vụ những công việc linh tinh

Nhưng nguồn thu nhập của Vatican mà người ta biết được do các nguồn lợi tức đem đến từ các trương mục của Vatican trong các ngân hàng thế giới thì thật là to lớn; phần nhiều là do việc đầu tư và cho thuê bất động sản. Chưa tính đến các khoản thu nhập đem đến từ việc buôn bán vật lưu niệm, đóng góp của các tín đồ Công Giáo, giá trị bất động sản, giá trị kho tàng, tài vật của Vatican đã lên đến 311 triệu Euros mỗi năm (khoảng 374 triệu USD). Như vậy thu nhập bình quân của mỗi đầu người sẽ là 557.348 Euros mỗi năm, tương đương với 668.817 USD/năm.

Tài liệu tham khảo:

– Les secrets du Vatican (Những Bí Ẩn của Vatican). Tác giả B. Lecomte. Nhà xuất bản Perrin năm 2009.
– Les Finances du Vatican (Tài Chính của Vatican). Tác giả Jean-Jacques Thierry. Nhà xuất bản Guy Authier năm 1978.

Từ khi Công Giáo La Mã được thành lập, họ luôn luôn rao truyền rằng “Nếu Thánh Pierre (Peter) giữ chìa khoá mở cửa thiên đường thì giáo hoàng nắm trong tay chìa khoá vàng để mở ra những tầng cửa của trái đất. Vì thế ngài có toàn quyền đóng mở các tầng trái đất để đẩy con người xuống hoả ngục hoặc đưa lên thiên đàng, tuỳ theo ý ngài muốn!” (Le Vatican inconnu – Điều Chưa Biết về Vatican. Tác giả Hồng Y Martin. Nhà xuất bản Fayard, năm 1988).

Do đó, ta không thấy ngạc nhiên khi vào thời điểm đó, sức mạnh tuyên truyền của Vatican có thể nói là không có địch thủ và giáo hoàng đã được coi như một vị thánh sống, giáo dân chỉ biết phục tùng. Nhờ vậy, mà tất cả các ý tưởng chống đối có tính cách khoa học, các văn kiện điều tra lô-gíc của cảnh sát địa phương bài bác hiện tượng “Đức Mẹ Giáng Trần » ở Lourde đều bị bác bỏ. Phải đợi đến sau đại chiến thế giới lần thứ hai mới được đem ra làm đề tài nghiên cứu.

Một sự cố quan trọng nhất vào thời điểm đó là bản luận án Y-khoa mà Bác Sĩ Theresa Valot đã viết chung với chồng của bà là Tiến Sĩ Guy Valot với tựa đề “Lourdes và Ảo Ảnh” đã gây tiếng vang rất lớn trong các trường đại học, trong giới khoa học Pháp và đã được trao giải thưởng khoa học. Các nhà xuất bản cũng đã tranh nhau quyền được độc quyền phổ biến bản luận án của bà.

Như vậy, bản luận án “Lourdes và Ảo Ảnh” của Bác Sĩ Theresa Valot có thể được coi như là văn kiện khoa học đầu tiên có giá trị nghiên cứu hợp lý viết về hiện tượng “Đức Mẹ Giáng Trần.” Luận án của bà không những đã phơi bày sự kiện Lourdes ra trước ánh sáng sau nhiều năm bị che giấu mà còn mở lại toàn bộ tài liệu của cảnh sát địa phương, thân nhân của “Thánh Nữ Bernadette Soubirous” viết về “Thánh Bernadette.”

Tiếc thay, trong khi Bác Sĩ Theresa Valot tiếp tục đi tìm sự thật về hiện tượng “Đức Mẹ Giáng Trần” thì bà bị chết trong một tai nạn giao thông. Cái chết của bà ngày ấy đã được những người tôn thờ hiện tượng “Đức Mẹ Giáng Trần” ca mừng! Họ coi đó như là một sự trừng phạt của “Đức Mẹ” đối với những kẻ chống phá! Cả trăm ngàn tờ rơi, cả trăm giờ của đài phát thanh Công Giáo thời bấy giờ đã gọi cái chết của Bác Sĩ Theresa Valot là một chiến thắng lớn của Thiên Chúa với Sa-tan (Sa-tan ám chỉ Bác Sĩ Theresa Valot!) Mặc dù công trình nghiên cứu của Bác Sĩ Theresa Valot bị bỏ dở nhưng nó đã để lại rất nhiều văn kiện quí giá cũng như các đầu mối để cho các phóng viên, các nhà khoa học tiếp tục hành trình dở dang của bà.

Bài viết của tôi sẽ được chia làm ba phần. Mỗi phần sẽ mô tả sự kiện của từng nơi mà “Đức Mẹ Đồng Trinh” đã giáng trần qua các tài liệu đã có sẵn của các sách báo.

Đặng Vũ Thanh Nguyên