YouTube: https://youtu.be/Th54Tl-E-nY
202501 Bài Giảng Trong Năm 2025
Ơn Cứu Rỗi của Đức Chúa Trời Ban cho Loài Người
Huỳnh Christian Timothy
Huỳnh Christian Priscilla
Kính mời quý con dân Chúa dành thời gian nghe bài giảng này, có nhiều thí dụ và giải thích chi tiết hơn là phần bài viết.
Bấm vào nút “play” ► dưới đây để nghe
Bấm vào nút “play” ► dưới đây để nghe
Bấm vào một trong các nối mạng dưới đây để nghe hoặc tải xuống mp3 bài giảng này:
- MediaFire: Bấm vào đây
- OpenDrive: Bấm vào đây
- SoundCloud: Bấm vào đây
Bấm vào một trong các nối mạng dưới đây để đọc hoặc tải xuống pdf bài giảng này:
- MediaFire: Bấm vào đây
- OpenDrive: Bấm vào đây
Kho chứa MP3 các bài giảng:
- MediaFire: Bấm vào đây
- OpenDrive:
1. Bấm vào đây
2. Bấm vào đây
Kho chứa pdf các bài giảng:
- MediaFire: Bấm vào đây
- OpenDrive:
1. Bấm vào đây
2. Bấm vào đây
Kính thưa Hội Thánh,
Nhân dịp ngày đầu của năm mới Dương Lịch 2025, chúng ta hãy dùng nhau ôn lại về ơn cứu rỗi của Đức Chúa Trời ban cho loài người. Mong rằng, lẽ thật về ơn cứu rỗi của Đức Chúa Trời sẽ khích lệ chúng ta chịu khổ, trung tín sống theo Lời Chúa cho tới cuối cùng để không bị trật phần ân điển. Ngày Đấng Christ đến để đem Hội Thánh ra khỏi thế gian đã rất gần. Gần nhất là như hơi thở kế tiếp của chúng ta, còn theo như các dấu hiệu đã xảy ra trong thế gian thì Đấng Christ có thể đến trong vòng không tới ba năm, kể từ hôm nay. Quý ông bà, anh chị em có thể đọc lại bài “Kỳ Tận Thế và Năm 2027” đã được đăng trên khu mạng kytanthe.net [1] để biết thêm chi tiết.
Sự cứu rỗi của Đức Chúa Trời ban cho loài người là ơn phước lớn nhất mà mỗi người có thể nhận được, sau ơn phước được sinh ra làm người. Vì nhờ ơn ấy mà loài người mới trở nên trọn vẹn và được sống hạnh phúc đời đời trong Vương Quốc của Đức Chúa Trời.
Qua Thánh Kinh là Lời Hằng Sống của Thiên Chúa, chúng ta đã biết, muôn vật, trong đó có loài người, đều do Thiên Chúa dựng nên.
Cũng qua Thánh Kinh, chúng ta biết rằng, chỉ có một Thiên Chúa tự có và có mãi. Tên tự xưng của Ngài trong tiếng Hê-bơ-rơ “יְהֹוָה” (Yᵊhōvâ) /yeh-ho-vaw’/ (H3068) được phiên âm sang tiếng Việt là /giê-hô-va/ và được dịch sang tiếng Hán Việt là Đấng Tự Hữu Hằng Hữu (“tự hữu” là tự có, “hằng hữu” là có mãi). Thiên Chúa thể hiện trong ba thân vị, còn gọi là ba ngôi, mà Thánh Kinh gọi là: Đức Chúa Trời, Ngôi Lời, và Đấng Thần Linh. Ba thân vị Thiên Chúa đồng thực hữu, hoàn toàn bình đẳng, bình quyền, và hiệp một.
Thân vị là ý thức bản thân, ý thức đạo đức, ý chí, cùng các chức năng nhận thức, phân tích, suy luận, và cảm giác của một thực thể. Thực thể là bất cứ thứ gì tồn tại, có thể là vật lý hoặc phi vật lý, hữu hình hay vô hình, tự có hoặc được dựng nên. Chỉ có Thiên Chúa, các thiên sứ, và loài người là có thân vị [2].
Thiên Chúa trong thân vị Đức Chúa Trời tiêu biểu cho ý muốn của Thiên Chúa và đại diện cho Ba Ngôi Thiên Chúa. Vì thế, mọi sự thờ phượng Thiên Chúa đều hướng về Đức Chúa Trời. Thiên Chúa trong thân vị Ngôi Lời tiêu biểu cho lời phán và hành động của Thiên Chúa, hoàn thành mọi ý muốn của Thiên Chúa, trong đó có sự sáng tạo nên muôn loài và sự hoàn thành sự cứu rỗi loài người. Vì thế, muôn loài được tạo dựng bởi Thiên Chúa Ngôi Lời và loài người chỉ nhận được sự cứu rỗi qua Ngài. Thiên Chúa trong thân vị Đấng Thần Linh tiêu biểu cho sự sống và sức mạnh của Thiên Chúa, ban sự sống và năng lực cho muôn loài thọ tạo, bảo tồn và giúp chúng phát triển theo quy luật của Thiên Chúa. Thiên Chúa trong thân vị Đấng Thần Linh còn ngự trong thân thể của những ai thuộc về Hội Thánh của Thiên Chúa để thi hành bảy mục vụ sau đây:
1. An ủi con dân Chúa khi họ gặp khó khăn, thử thách (Giăng 14:16).
2. Giảng dạy con dân Chúa về các lẽ thật trong Lời Chúa (Giăng 14:26; 16:13-15).
3. Hướng dẫn con dân Chúa sống theo Lời Chúa (Giăng 16:13a; Rô-ma 8:14).
4. Cáo trách con dân Chúa về tội lỗi, kêu gọi họ ăn năn (Giăng 16:8).
5. Làm chứng cho con dân Chúa những sự thuộc về Thiên Chúa, những việc làm của Thiên Chúa, và ấn chứng họ thuộc về Thiên Chúa (Rô-ma 8:16; Ê-phê-sô 1:13, 4:30; I Giăng 5:9).
6. Cầu thay cho con dân Chúa những khi họ không biết phải cầu nguyện như thế nào (Rô-ma 8:26-27).
7. Ban ân tứ cho con dân Chúa để họ hoàn thành mọi việc lành mà Đức Chúa Trời đã sắm sẵn cho họ (I Cô-rinh-tô 12:1-11).
Thiên Chúa trong thân vị Đức Chúa Trời là Cha của những ai kính sợ Ngài và vâng phục Ngài, vì họ được Ngài nhận làm những con trai và những con gái của Ngài (II Cô-rinh-tô 6:18). Khi Thiên Chúa trong thân vị Ngôi Lời nhập thế làm người thì Ngài mang tên Jesus. Tên Jesus có nghĩa: Đấng Tự Hữu Hằng Hữu Là Đấng Cứu Rỗi. Khi Thiên Chúa trong thân vị Đấng Thần Linh ngự trong thân thể loài người và hành động trong thân thể loài người thì Thánh Kinh gọi Ngài là Đức Thánh Linh. Đức Thánh Linh chỉ ngự trong thân thể của những ai tin nhận sự cứu rỗi của Đức Chúa Trời, được thuộc về Hội Thánh của Thiên Chúa.
Hội Thánh của Thiên Chúa còn gọi là Hội Thánh của Đức Chúa Trời, vì Ngài ban ơn cứu rỗi cho họ; hoặc Hội Thánh của Đấng Christ, vì Ngài hoàn thành sự cứu chuộc họ. Hội Thánh là tập thể của bất cứ ai thật lòng ăn năn tội, hoàn toàn tin nhận sự chết chuộc tội của Đức Chúa Jesus Christ, và hết lòng sống theo Lời Chúa. Hội Thánh bao gồm mọi dân tộc, kể từ ngày Hội Thánh được thành lập trong ngày Lễ Ngũ Tuần của năm 27 [3] cho tới khi Hội Thánh được Đấng Christ đem ra khỏi thế gian, trước Kỳ Tận Thế.
“Chẳng có người Do-thái hoặc người Hy-lạp, chẳng có người nô lệ hoặc người tự do, chẳng có đàn ông hoặc đàn bà; vì hết thảy các anh chị em là một trong Đấng Christ Jesus.” (Ga-la-ti 3:28).
“Tại đây, không có người Hy-lạp hoặc người Do-thái, người chịu cắt bì hoặc người không chịu cắt bì, người dã man hoặc người Si-the, người nô lệ hoặc người tự do; nhưng Đấng Christ là tất cả và trong tất cả.” (Cô-lô-se 3:11).
Hội Thánh khác với tuyển dân I-sơ-ra-ên và không thay thế cho dân I-sơ-ra-ên. Trong Hội Thánh bao gồm mọi dân tộc, kể cả dân I-sơ-ra-ên. Hội Thánh là một nhóm người được Đức Chúa Trời biệt riêng để đồng trị Vương Quốc Đời Đời với Đấng Christ.
Chỉ có một Hội Thánh của Thiên Chúa thể hiện trong nhiều địa phương khác nhau. Nơi nào có hai hay ba con dân Chúa nhóm lại thì Đức Chúa Jesus hiện diện giữa họ và đó là sự nhóm hiệp của Hội Thánh (Ma-thi-ơ 18:20). Các giáo hội mang danh Chúa không phải là Hội Thánh, dù trong các giáo hội ấy có nhiều con dân chân thật của Chúa, vì các giáo hội ấy giảng dạy các điều răn của loài người thay cho các điều răn của Đức Chúa Trời.
Muôn vật được dựng nên theo ý muốn của Đức Chúa Trời, bởi lời phán của Ngôi Lời, và được bảo tồn bởi Đấng Thần Linh.
Thiên Chúa có mục đích khi Ngài dựng nên muôn vật và loài người. Loài người là linh hồn, có thân thể thiêng liêng là tâm thần và thân thể vật chất là xác thịt. Thiên Chúa dựng nên loài người để từ đó chọn ra những người tin kính Ngài, vâng phục Ngài. Sự tin kính Thiên Chúa bao gồm tin nhận sự thực hữu của Thiên Chúa, nương cậy nơi Thiên Chúa, và thờ phượng chỉ một mình Thiên Chúa. Sự vâng phục Thiên Chúa là hoàn toàn vâng theo mọi ý muốn của Thiên Chúa, như đã được Đức Chúa Trời ban cho trong lương tâm của mỗi người và đã được ghi chép trong Thánh Kinh. Tất cả những ai tin kính và vâng phục Thiên Chúa thì được Ngài ban cho họ địa vị làm con của Ngài để họ được vui hưởng cơ nghiệp của Ngài. Cơ nghiệp ấy là trời mới và đất mới cùng muôn loài tạo vật khác, trong Vương Quốc Đời Đời.
“Chẳng phải Ngài chỉ làm ra một loài người dù hơi linh của Ngài là dư dật sao? Vì sao chỉ làm ra một? Ấy là để tìm một dòng dõi thánh.” (Ma-la-chi 2:15a).
Dòng dõi thánh là những ai thuộc về con cháu của loài người, có lòng tin kính và vâng phục Thiên Chúa. Họ được Thánh Kinh gọi là những thánh đồ, có nghĩa là những người đã được Đức Chúa Trời làm cho nên thánh. Dấu hiệu tỏ ra họ là những thánh đồ là sự họ yêu thích và vâng giữ các điều răn của Thiên Chúa. Các điều răn của Thiên Chúa đối với những thánh đồ trước thời Tân Ước là Mười Điều Răn của Đức Chúa Trời. Còn đối với những thánh đồ trong thời Tân Ước thì bao gồm Mười Điều Răn của Đức Chúa Trời, Điều Răn Mới của Đức Chúa Jesus, và Điều Răn Nên Thánh của Đức Thánh Linh, như đã được ghi trong Xuất Ê-díp-tô Ký 20:1-17, Giăng 13:34, và Công Vụ Các Sứ Đồ 15:29 [4].
Các thiên sứ là những thần linh được Thiên Chúa dựng nên để phụng sự Thiên Chúa và phục vụ loài người. Các thiên sứ chỉ có thân thể thiêng liêng chứ không có thân thể vật chất như loài người. Khi cần hiện ra để loan truyền thánh ý của Đức Chúa Trời cho loài người thì các thiên sứ sẽ hiện ra trong một hình thể vật chất tạm thời, như hình thể của loài người. Nhưng đó không phải là thân thể xác thịt của họ.
Thiên Chúa dựng nên các thiên sứ và loài người là những thân vị hoàn toàn có quyền tự do lựa chọn để tin kính và vâng phục Thiên Chúa hoặc chống nghịch Ngài. Quyền tự do lựa chọn đó được ban cho các thiên sứ và loài người để họ thể hiện tình yêu đối với Thiên Chúa và với nhau. Nếu không có quyền tự do lựa chọn thì sẽ không có tình yêu thật. Nếu không có quyền tự do lựa chọn thì sự các thiên sứ và loài người vâng phục Thiên Chúa chỉ có tính cách máy móc, như những con rô-bốt vâng theo các mệnh lệnh đã được đặt vào trong chúng. Và như vậy, họ sẽ không thể kinh nghiệm tình yêu.
Có nhiều thiên sứ đã chọn chống nghịch Thiên Chúa mà Thánh Kinh gọi là tà linh hoặc ma quỷ. Tà linh là những thần linh không thánh sạch vì đã phạm tội. Ma quỷ có nghĩa là kẻ vu khống, vì những thiên sứ phạm tội đã vu khống Thiên Chúa. Kẻ đứng đầu những thiên sứ phạm tội là Sa-tan. Danh từ Sa-tan có nghĩa là kẻ chống nghịch và kiện cáo. Sa-tan luôn chống nghịch Thiên Chúa, chống nghịch loài người và kiện cáo loài người trước Đức Chúa Trời.
Thánh Kinh không nói rõ về sự phạm tội của những thiên sứ, ngoài hàm ý, có một thiên sứ trưởng tên là Lu-xi-phe (có nghĩa là Ngôi Sao Mai) đã vì kiêu ngạo nên phạm tội, kéo theo khoảng một phần ba những thiên sứ khác cùng theo hắn, chống nghịch Thiên Chúa.
Ê-sai 14:12-15
12 Hỡi Lu-xi-phe, con trai của sáng sớm kia, sao ngươi từ trời đã sa xuống! Hỡi kẻ giày đạp các nước kia, ngươi đã bị chặt xuống đất là thế nào!
13 Ngươi vẫn nói trong lòng ngươi: Ta sẽ lên các tầng trời. Ta sẽ nhấc ngai ta trên những ngôi sao của Thiên Chúa. Ta sẽ ngồi trên núi của sự nhóm hiệp về phía cực bắc.
14 Ta sẽ lên trên cao những đám mây, làm ra mình bằng Đấng Rất Cao.
15 Nhưng ngươi phải xuống nơi âm phủ, rơi vào nơi vực thẳm!
“Đã được thấy một dấu lạ khác trên trời. Này, một con rồng đỏ, lớn, có bảy đầu và mười sừng, với bảy cái mão trên các đầu của nó. Đuôi của nó kéo một phần ba các ngôi sao trời và ném chúng xuống đất. Con rồng đứng trước người đàn bà sắp đẻ để khi nàng đẻ đứa con của mình thì nó nuốt.” (Khải Huyền 12:3-4).
Thiên Chúa dựng nên nhiều loại thiên sứ khác nhau và có lẽ Ngài đã cùng lúc dựng nên tất cả các loại thiên sứ. Họ không có khả năng sinh sản như loài người và các loài thọ tạo khác. Vì thế không có dòng dõi thiên sứ. Cũng không có sự nhiễm tội từ thiên sứ này sang thiên sứ khác. Mỗi thiên sứ phạm tội là do họ tự mình chọn chống nghịch Thiên Chúa. Có lẽ họ chọn chống nghịch Thiên Chúa để có thể hành động theo ý riêng, không theo các điều răn của Ngài. Cũng có thể họ chọn chống nghịch Thiên Chúa vì họ ganh tị với loài người.
Đức Chúa Trời không có chương trình cứu rỗi ban cho những thiên sứ phạm tội. Có lẽ vì họ được ở trong thiên đàng, được tận mắt nhìn thấy Thiên Chúa, được chứng kiến sự Thiên Chúa đặt nền trái đất (Gióp 38:4-7) mà vẫn chống nghịch Ngài, nên sự cứu rỗi đã không được ban cho họ.
Loài người, dù được dựng nên sau cùng trong muôn loài và tạm thời có năng lực kém hơn các thiên sứ (Thi Thiên 8:5), nhưng loài người lại được Đức Chúa Trời ban cho quyền cai trị cơ nghiệp của Ngài, nghĩa là quyền cai trị muôn loài thọ tạo khác, và có quyền phán xét các thiên sứ (I Cô-rinh-tô 6:3). Tuy nhiên, loài người cũng đã tự lựa chọn phạm tội, chống nghịch Thiên Chúa để có thể hành động theo ý riêng. Câu chuyện loài người sa ngã, phạm tội được ghi lại trong Sáng Thế Ký đoạn 3.
Tội lỗi là sự không tin kính Thiên Chúa, không vâng phục Thiên Chúa. Thủy tổ của loài người là A-đam và Ê-va đã không tin lời phán của Thiên Chúa, đã không vâng phục Thiên Chúa, khiến cho tội lỗi và hậu quả của tội lỗi vào trong thế gian. Từ đó, mỗi một người được sinh ra trong thế gian đều bị nhiễm bản tính tội lỗi từ A-đam, vì sự sống của mỗi người là linh hồn được di truyền từ A-đam. Hậu quả của tội lỗi là sự đau khổ, bất công, tật bệnh, và sự chết.
Chính vì được sinh ra với bản tính tội nên mỗi người khi đến tuổi hiểu biết đều tự mình phạm tội. Phạm tội là sự cố ý chống nghịch ý muốn của Thiên Chúa. Ý muốn của Thiên Chúa đã được Ngài đặt để trong mỗi người, trong đó có các tiêu chuẩn đạo đức, gọi là lương tâm. Thánh Kinh đã tóm lược tiêu chuẩn đạo đức ấy trong Mười Điều Răn của Đức Chúa Trời, như đã chép trong Xuất Ê-díp-tô Ký 20:1-17 và được nhắc lại trong Phục Truyền Luật Lệ Ký 5:6-21. Hình phạt của sự phạm tội là sự chết.
Sự chết bao gồm sự chết thuộc thể của thân thể xác thịt và sự chết thuộc linh của thân thể thiêng liêng là tâm thần. Sự chết thuộc thể xảy ra khiến cho loài người chấm dứt hành động phạm tội. Khi đó, thân thể xác thịt trở về cùng bụi đất, tức là bị phân rã thành các nguyên tố hóa học trong thế giới vật chất; tâm thần quay về cùng Đức Chúa Trời, là Đấng đã ban nó cho mỗi người; còn linh hồn thì bị tạm giam trong âm phủ, chờ ngày thân thể xác thịt được sống lại để chịu sự phán xét của Đức Chúa Trời về mọi việc đã làm. Sự chết thuộc linh là sự tâm thần bị cắt đi mối tương giao với Thiên Chúa, khiến cho loài người không còn thêm lên sự hiểu biết về Thiên Chúa, không còn nhận được năng lực từ Thiên Chúa.
Thực trạng của mỗi một người là được sinh ra với bản tính tội, phạm tội, và bị hình phạt hư mất đời đời. Có những người vui thú trong sự phạm tội và không hề có ý ngưng phạm tội. Cũng có những người đau khổ vì phạm tội, không muốn phạm tội, nhưng lại không thể ngưng phạm tội, vì bị bản tính tội lỗi điều khiển.
Đức Chúa Trời yêu loài người dù loài người đã phạm tội chống nghịch Ngài. Ngài đã ban cho loài người cơ hội được cứu ra khỏi hậu quả của sự phạm tội, bởi sự chết chuộc tội của Đức Chúa Jesus Christ. Lời Chúa khẳng định:
“Vì Ðức Chúa Trời đã yêu thế gian đến nỗi Ngài đã ban Con Một của Ngài, để ai tin nơi Đấng ấy sẽ không bị hư mất nhưng được sự sống vĩnh cửu.” (Giăng 3:16).
Con Một của Đức Chúa Trời chính là Đức Chúa Jesus. Danh từ “Con Một” được dùng cho Đức Chúa Jesus vì khi ấy, Ngài là người duy nhất được Đức Chúa Trời sinh ra. Về sau, sau khi Ngài đã hoàn thành sự cứu chuộc loài người, Ngài mang danh hiệu “Con Đầu Lòng trong nhiều anh chị em cùng Cha” (Rô-ma 8:29). Vì tất cả những ai thật lòng tin nhận ơn cứu rỗi của Đức Chúa Trời đều được Đức Chúa Trời tái sinh thành những con trai và những con gái của Đức Chúa Trời, mà người anh cả là Đức Chúa Jesus.
Sự thân thể xác thịt của Đức Chúa Jesus được sinh ra trong lòng trinh nữ Ma-ri là một phép lạ và một sự huyền nhiệm. Chúng ta có thể hiểu rằng, Đức Chúa Trời đã dựng nên một tinh trùng mang nhiễm sắc thể Y để phối hợp với trứng trong lòng của trinh nữ Ma-ri. Vì tinh trùng ấy không đến từ một người nam nên thai nhi không mang bản tính tội di truyền từ A-đam. Cũng vì thế mà thai nhi được gọi là dòng dõi của người nữ, như lời tiên tri trong Sáng Thế Ký 3:15. Xét về phương diện xác thịt thì Đức Chúa Jesus được sinh ra bởi Đức Chúa Trời và bởi nữ đồng trinh Ma-ri. Ngài vừa là “Con của Đức Chúa Trời” vừa là “Con của loài người”, gọi tắt là “Con Người”. Xét về phương diện thuộc linh, Ngài là Thiên Chúa Ngôi Lời đồng tự có với Đức Chúa Trời, vui lòng mang lấy xác thịt loài người. Vậy, Đức Chúa Jesus hoàn toàn là Thiên Chúa mà cũng hoàn toàn là loài người.
Trước khi hoàn thành sự chết chuộc tội cho loài người thì Đức Chúa Jesus không tự mình hành động với uy quyền và năng lực của Thiên Chúa. Trong thân vị loài người, Ngài có sự yếu đuối và bị giới hạn bởi các định luật vật lý như bao nhiêu người khác. Ngài hành động với thẩm quyền được ban cho bởi Đức Chúa Trời và với năng lực được ban cho bởi Đấng Thần Linh, như những tiên tri trước Ngài. Chính vì thế mà Ngài không biết thời điểm sự đến thế gian lần thứ nhì của Ngài để đem Hội Thánh ra khỏi thế gian (Mác 13:32). Sau khi hoàn thành sự chết chuộc tội cho loài người, thăng thiên vào thiên đàng, thì thân thể xác thịt của Đức Chúa Jesus hành động với uy quyền và năng lực của Thiên Chúa. Và đương nhiên Ngài biết rõ thời điểm Ngài sẽ trở lại để đón Hội Thánh ra khỏi thế gian, vì Ngài là Thiên Chúa Toàn Tri.
Đức Chúa Jesus có danh hiệu là “Đấng Christ” để nói đến sự kiện Ngài được Đức Chúa Trời sai vào trong thế gian, hoàn thành sự cứu chuộc loài người và giãi bày về Thiên Chúa cho loài người. Ngài còn có danh hiệu “Chiên Con” để nói đến sự kiện Ngài dâng chính mạng sống của Ngài lên Đức Chúa Trời để làm của lễ chuộc tội cho loài người. Ngài tự xưng là “Con Người” để nói đến sự kiện dù Ngài là Thiên Chúa nhưng Ngài cũng hoàn toàn là loài người. Chỉ có loài người mới có thể chết thay cho loài người, và chỉ có mạng sống vô hạn của Thiên Chúa mới có thể thay thế cho mạng sống của toàn thể loài người. Đức Chúa Jesus là thân vị loài người duy nhất được sinh ra không mang bản tính tội, và chính Ngài cũng không hề phạm tội. Vì thế, Ngài xứng đáng làm của lễ chuộc tội cho loài người.
Mọi sự phạm tội đều cùng mang một hình phạt chung cuộc là bị hư mất đời đời. Sự hư mất đời đời là sự bị “xa cách mặt Chúa và sự vinh quang của sức mạnh Ngài”, chịu khổ đời đời trong hỏa ngục, được gọi là sự chết thứ nhì (II Tê-sa-lô-ni-ca 1:9; Khải Huyền 20:11-15). Dù phạm một tội hay phạm vô số tội thì hình phạt chung cuộc đều giống nhau, là đời đời chịu khổ trong hỏa ngục. Sự khác biệt là mức độ đau khổ nhiều ít tùy theo số tội đã phạm.
Để tội nhân có thể thoát khỏi hình phạt của sự phạm tội thì phải có người gánh thay án phạt. Đức Chúa Jesus đã gánh thay án phạt cho toàn thể loài người về thuộc thể lẫn thuộc linh. Khi Ngài chịu bị đóng đinh trên thập tự giá cho tới chết, Ngài đã gánh thay cái chết thuộc thể cho mỗi tội nhân. Khi trời đất tối sầm, Đức Chúa Trời từ bỏ Đức Chúa Jesus, khiến Ngài phải kêu lên: “Đức Chúa Trời của tôi ơi! Đức Chúa Trời của tôi ơi! Sao Ngài lìa bỏ tôi?” (Ma-thi-ơ 27:46; Mác 15:34), Ngài đã gánh thay cái chết thuộc linh cho mỗi tội nhân, là sự bị phân rẽ khỏi Thiên Chúa.
Việc còn lại là tội nhân thật lòng ăn năn tội, nghĩa là đau khổ vì đã phạm tội, không muốn phạm tội nữa; và hoàn toàn tin nhận sự chết chuộc tội của Đức Chúa Jesus, nghĩa là tin rằng, Ngài là Con của Đức Chúa Trời đã gánh thay án phạt của tội lỗi cho mình, bằng sự chết của Ngài trên thập tự giá. Đó chính là tiếp nhận ơn cứu rỗi Đức Chúa Trời đã ban cho loài người.
Người tin nhận ơn cứu rỗi của Đức Chúa Trời sẽ được Đức Chúa Trời tái sinh, ban cho địa vị làm con trai hoặc con gái của Ngài; được Đức Chúa Jesus rửa sạch bản tính tội lỗi, không còn bị nô lệ cho tội lỗi; được Đấng Thần Linh ngự vào trong thân thể xác thịt, ban cho sự sống và năng lực từ Thiên Chúa để người ấy sống một nếp sống mới, đắc thắng mọi cám dỗ, hoàn toàn vâng phục các điều răn của Thiên Chúa. Người ấy cần trung tín cho tới chết để được Đức Chúa Jesus ban cho sự sống đời đời.
“Đừng sợ những điều ngươi sẽ chịu khổ! Kìa, Ma Quỷ sẽ ném một số các ngươi vào tù để các ngươi chịu thử thách. Các ngươi sẽ có mười ngày hoạn nạn. Hãy trung tín cho tới chết, và Ta sẽ ban cho ngươi mão sự sống!” (Khải Huyền 2:10).
“Mão sự sống” là dấu hiệu của những ai được ban cho sự sống đời đời trong Vương Quốc Trời.
Trung tín cho tới chết là hết lòng sống theo Lời Chúa cho tới chết, sẵn sàng chịu khổ và chịu mất đi mạng sống để không vi phạm các điều răn của Thiên Chúa.
Kính thưa Hội Thánh,
Trong ngày đầu năm mới Dương Lịch 2025 này, chúng ta hãy cùng nhau quyết tâm, sống trung tín cho tới ngày Đấng Christ hiện ra để đem Hội Thánh vào trong thiên đàng.
Nguyện Lời Chúa thánh hóa chúng ta và thêm sức cho chúng ta. Nguyện tất cả chúng ta đều giữ vững đức tin, trung tín với Chúa cho tới ngày Đấng Christ đến. Nguyện tình yêu, ân điển, và sự thông công từ Ba Ngôi Thiên Chúa: Đức Cha, Đức Con, và Đức Thánh Linh, bao phủ quý ông bà, anh chị em. A-men!
Huỳnh Christian Timothy
Huỳnh Christian Priscilla
01/01/2025
Ghi Chú
Nếu không truy cập được các nối mạng dưới đây, xin vào https://server6.kproxy.com/, dán địa chỉ nối mạng vào ô tìm kiếm, rồi bấm nút surf.
[1] https://kytanthe.net/067-ky-tan-the-va-nam-2027/
[2] https://thewordtoyou.net/dictionary/14-than-vi
[3] Đức Chúa Jesus bị đóng đinh trên thập tự giá vào ngày Lễ Vượt Qua của năm 27. Hội Thánh được thành lập vào ngày Lễ Ngũ Tuần của năm 27. Xin tham khảo bài này: https://timhieutinlanh.com/thanhoc/ngay-chua-chet-va-ngay-chua-phuc-sinh/
[4] https://timhieutinlanh.com/cac-dieu-ran-cua-thien-chua/
Karaoke Thánh Ca: “Chào Mừng Mùa Xuân”
https://karaokethanhca.net/chao-mung-mua-xuan/
Thánh Kinh Việt Ngữ Bản Hiệu Đính 2012: Các câu Thánh Kinh được trích dẫn trong bài này là theo Thánh Kinh Việt Ngữ Bản Hiệu Đính 2012. Đây là bản Thánh Kinh Việt Ngữ trên mạng, đang trong tiến trình hiệu đính để hoàn thành Thánh Kinh Việt Ngữ Bản Dịch Ngôi Lời. Quý con dân Chúa có thể đọc tại đây: https://thewordtoyou.net/bible, chọn phiên bản “Hiệu Đính”.
Các chữ nằm trong hai dấu [ ] không có trong nguyên văn của Thánh Kinh, được thêm vào cho đúng ngữ pháp tiếng Việt, hoặc đó là chú thích của người dịch.