Youtube: https://youtu.be/Z_nH1Kqwomg
MP3 OpenDrive:
https://od.lk/d/MV8xODA4MjQ3ODdf/HoaHueGiuaChongGai_04.mp3
MP3 SoundCloud:
https://soundcloud.com/huynh-christian-timothy/hoahuegiuachonggai-04
Tải xuống bài viết, mp3, và video tại đây:
https://od.lk/fl/MV8yMDkxNzgyNF8
Anh Hùng Đức Tin
Hoa Huệ Giữa Chông Gai
Nguyên tác: Danyun
Chuyển ngữ: Vô Danh
THẾ GIAN KHÔNG XỨNG ĐÁNG CHO HỌ
1. Lời Giới Thiệu
Chín ngày liền, mỗi một giọt nước ở vùng đồng bằng Fanda, thuộc miền bắc Trung Quốc đều bị đông đá. Nhiệt độ đã hạ xuống mười chín độ dưới không. Có một ngọn gió tây bắc thổi, quét những đợt tuyết quấn lại giống như những quả bóng bằng bông. Sau nhiều giờ đồng hồ, tuyết dày đến một mét đã bao phủ khu vực giống như một tấm chăn màu trắng. Có vẻ như nó che phủ mọi tội lỗi của loài người. Vào lúc hai giờ sáng, ở một huyện nọ tại làng ‘Tình Yêu’, có một người đàn ông trạc tuổi trung niên, ngoài bốn mươi, quỳ gối cầu nguyện trong sân đằng sau nhà. Ông cầu nguyện hơn hai tiếng đồng hồ. Ông cầu nguyện dốc đổ, dâng lên Chúa đất nước mình, dân tộc mình, và hàng nghìn linh hồn, và vì công việc Hội Thánh. Khi ông cầu nguyện, mắt cá chân ông càng lún sâu xuống tuyết sâu hơn và sâu hơn. Ông bắt đầu khóc và nước mắt ông đã rơi xuống tuyết. Ông tiếp tục cầu nguyện và thình lình ông nghe thấy trong lòng có tiếng êm dịu nhỏ nhẹ nói với ông: “Trong ba ngày nữa, ngươi sẽ bị bắt vì Chúa”. Từ tận đáy lòng, ông cảm tạ Chúa và đứng lên. Lúc đó chiếc quần của ông trở nên giống như đá. Ông là ai? Từ đâu đến? Tại sao ông lại đến cầu nguyện ở chỗ đó?
2. Ánh sáng đã bừng lên trên những kẻ ngồi trong miền và bóng của sự chết (Ma-thi-ơ 4:16)
Mặt nước sông trong xanh chiếu lấp lánh, như những đốm lửa dưới ánh mặt trời buổi sáng sớm. Bạn dường như thấy ánh sáng cứ tiếp tục lan ra, khi dòng sông chảy từ hướng bắc đổ về phía nam. Những con cá nhỏ bơi lượn dưới ánh mặt trời ban mai, nếu mà có vài cậu chăn bầy đi qua, có lẽ chúng sẽ nhảy xuống sông để nô đùa. Phía đông của dòng sông là một ngọn núi nhỏ. Tuy nó không cao lắm, vốn là phần của một dải núi kéo dài một nghìn sáu trăm cây số. Dải núi trùng trùng điệp điệp có cây rậm bao trùm, làm cho nó có một dáng vẻ rất đặc biệt. Trong ngôi làng ở dưới chân núi, có bốn ngôi nhà tranh nằm ven sông. Ở đây có một đôi vợ chồng và năm đứa con sinh sống.
Đầu của gia đình là Thừa Kiến. Anh có dáng người vừa vừa, nhưng rất chắc nịch, với đôi lông mày đậm, đôi mắt sáng, một gương mặt tròn, cái mũi to và một cái miệng rộng. Anh là người đầy tràn sức sống. Tuy đã ngoài ba mươi và có một cuộc sống khắc nghiệt, nhưng anh vẫn thường cởi mở, dí dỏm và lạc quan như những ngày còn trẻ tuổi. Anh là một người đầy dẫy sự vui mừng, dù cho trong hoàn cảnh khó khăn nhất, bạn vẫn có thể nghe thấy tiếng cười của anh.
Bởi vì tình trạng đất nước bi đát, nên đối với mỗi người, cuộc sống rất khó khăn. Vợ của Kiến rất hay bị đau ốm. Họ nghèo đến nỗi nhiều khi nhà không có đồ ăn. Điều đó đã kéo dài sáu đến bảy năm. Đôi khi, Kiến đi ngang qua nhà của người họ hàng mình chỉ để chào hỏi. Người họ hàng của anh thì lo sợ rằng, anh sẽ mượn tiền của họ. Họ thấy không biết nói chuyện gì với Kiến. Điều đó càng làm cho Kiến lúng túng hơn và không biết làm thế nào.
Trong cuộc cách mạng văn hóa, đối với các Cơ-đốc nhân, xuống đường để bị ‘bêu gương’ là chuyện rất bình thường. Lúc đó là vào mùa xuân năm 1974. Vào một buổi trưa, Kiến đi ngang qua một xóm kia. Anh trông thấy có một bà già bị bắt ra đường để bị ‘bêu gương’. Bà khoảng chừng sáu mươi tuổi. Kiến đã nghe thấy bà nói rằng: “Gia đình chúng tôi rất nghèo, và chúng tôi thường bị đau ốm. Thậm chí, tôi bị nhiều chứng bệnh khác nhau. Tôi đã tốn hết bao nhiêu tiền cho thuốc men và thật là khổ sở. Nhưng kể từ khi tôi đến với Chúa Jesus, trong gia đình tôi có sự bình an.”
Sau khi Kiến nghe thấy điều đó, anh tự nghĩ: “Hay đấy, tin Chúa Jesus có thể làm cho mình được khỏe mạnh.” Nên anh đã chạy về nhà và tìm những người của Hội Thánh. Anh nói rằng, anh muốn tin Chúa Jesus, và nhờ Hội Thánh hãy cầu nguyện cho vợ của mình. Nhưng các anh em đã không tin lời anh. Nhưng anh đã kiên quyết. Anh đã ba bốn lần trong ngày đến nhà của các anh em, để xin họ cầu nguyện. Cuối cùng, các anh em đã được lay động. Họ đến nhà của anh để cầu nguyện cho vợ anh. Họ làm liên tiếp ba ngày liền. Ngợi khen Chúa! Vợ của Kiến đã được lành hẳn. Cô không trông như đã từng bị bệnh một thời gian dài, nhưng cô đã ra đồng làm việc được ngay vào ngày thứ tư và những người trong tổ sản xuất đều rất ngạc nhiên. Cô thường hay kêu la và rất khó gần. Nhưng bây giờ, cô đã hoàn toàn thay đổi. Mọi người hỏi cô: “Có phải chị tin Chúa Jesus không?” Chị Kiến chỉ cười; chị không nói một lời nào. Nhưng bản thân Kiến, thì vẫn chưa đến với Chúa. Tấm lòng anh vẫn còn cứng cỏi. Anh nghĩ, bởi vì vợ tôi được chữa lành, nên cô sẽ là người tin Chúa Jesus, chứ không phải là tôi. Vào một buổi tối, vợ anh từ buổi nhóm trở về. Cô đã quỳ gối trong phòng riêng và cầu nguyện dốc đổ cho Kiến, trong khi Kiến đang ngủ ở một phòng khác. Sau đó, Kiến cảm thấy người khó chịu quá. Anh đã quỳ gối xuống và bắt đầu kêu gào. Anh đã kêu la mấy tiếng đồng hồ như vậy, cho đến khi anh được sự bình an trở lại trong lòng, và tối hôm đó anh đã tiếp nhận Chúa. Kiến vốn là người ‘hồn nhiên, ngây thơ’ và được mọi người yêu mến. Nhưng sau khi anh được cứu, mọi người bắt đầu ghét bỏ anh.
3. Khi ngươi đã hối cải, hãy làm cho vững chí anh em mình (Lu-ca 22:32)
Vào một ngày kia, khi Kiến và vợ đang làm việc ngoài đồng, có hai người bắt đầu châm chọc và nói những điều có ý khích bác. Họ rất có vẻ miệt thị và nhạo báng Đức Chúa Trời, đến lúc Kiến không thể đứng yên được nữa, anh lên tiếng nói: “Thôi đi! Nếu các ông muốn nói gì, thì hãy nói ra! Tôi có làm hại các ông điều gì chăng, mà các ông lại xúc phạm đến Đức Chúa Trời của tôi như vậy?” Hai người không dám nói điều gì thêm. Họ gục đầu xuống và bắt đầu làm việc.
Kiến đi nhóm thường xuyên. Vào một ngày kia, anh và vợ bị bắt trong một buổi nhóm và bị đưa đi ‘học tập’. Năm đứa con nhỏ bị bỏ lại ở nhà, không ai chăm sóc. Mười ngày sau, tất cả những người trộm cắp, cờ bạc, và gây gổ đều được thả ra, ngoại trừ Kiến và vợ anh. Cuối cùng, không còn thức ăn ở nhà nữa. Các con cứ đến lớp ‘học tập’ và đứng ngoài kêu gào. Điều đó làm cho trái tim Thừa Kiến tan nát. Càng tệ hơn, những người lãnh đạo đảng tiếp tục dọa nạt họ. Nên cuối cùng, Kiến chối bỏ Chúa Jesus và ký tên vào.
Sau khi về nhà, họ vô cùng buồn bã. Họ không thể ăn ngủ được. Sau đó, họ đã quỳ gối xuống và khóc lóc trước Chúa. “Chúa ơi, chúng con đã không thành tín, chúng con không biết là Ngài có còn yêu chúng con nữa hay không. Nếu Ngài còn yêu chúng con. Xin hãy để cho chúng con bị ốm trong mười ngày.” Sau khi họ đã cầu nguyện lời cầu nguyện đó, họ càng khóc thảm thiết hơn nữa. Ba ngày sau đó, cả gia đình đều lăn ra ốm. Người lãnh đạo đảng thấy gia đình Kiến không ra đồng làm việc mấy ngày, thì ông cùng với mấy người nữa đã đến, để tìm ra nguyên nhân. Kiến nói với ông ta: “Bởi vì các ông bắt ép tôi chối bỏ Chúa Jesus và ký tên, nên chúng tôi đã bị ốm, và Chúa cũng đã tha thứ cho chúng tôi. Hãy đưa lại cho tôi tờ ‘tuyên bố ly khai’, nếu không chúng tôi sẽ chết. Kể từ lúc này, không những cả gia đình tôi tin Chúa Jesus, chúng tôi còn hiến dâng cả nhà cửa chúng tôi cho Chúa nữa. Chúng tôi sẽ có những buổi nhóm ở nhà chúng tôi.”
Sau khi Kiến đã ăn năn như vậy, anh bắt đầu tháo mồ hôi và được lành hoàn toàn. Một vài ngày sau, cả gia đình đều được lành. Họ cảm thấy kinh hoàng và tôn vinh Chúa.
Chúa đã đặc biệt lựa chọn gia đình và căn nhà đó để làm nơi nhóm họp rất tốt. Gần như mỗi ngày, họ đều có những tín đồ đến nhà mình. Chính quyền thấy rất chướng tai gai mắt, thường sai những kẻ gây rối và dọa nạt họ. Nhưng cả gia đình Kiến cùng họp lại cầu nguyện. Họ hứa nguyện phó thác mọi sự trong tay Chúa và không lo sợ gì hết.
Ba tháng sau, Kiến nhận được sự kêu gọi giảng Tin Lành. Từ lúc đó, anh luôn luôn đi ra, giảng Tin Lành và phục vụ mọi người. Lời giảng của Kiến rất thu hút và có sức thuyết phục. Trên hết mọi điều đó, anh có một trái tim dành cho những linh hồn. Anh luôn luôn bằng nước mắt, giục giã mọi người hãy ăn năn và quay trở lại với Chúa. Và nhiều người trở lại với Chúa qua những lời giảng của anh. Có một ngày, Kiến nghe nói có một đầy tớ Chúa, người anh em Minh, sống ở trên đồi, bị đi tù vì cớ Tin Lành. Vào năm 1974, anh bị kết án bảy năm tù. Kiến đã cầu nguyện khẩn thiết cho người anh em Minh và gia đình anh. Vào ngày hai mươi ba Tháng Một năm 1975, vợ của Kiến nói với chồng, hãy đem lúa đi ra phố chợ bán. Với số tiền có được, anh có thể mua ít đồ ăn và thực phẩm chuẩn bị cho tết năm mới. Rồi anh ra đi, và bán được sáu yuan (nguyên – đơn vị tiền Trung Quốc). Sau đó, anh đã nghĩ đến gia đình anh Minh và thấy thương họ. Anh quyết định đến thăm họ. Kiến chỉ biết là anh Minh sống ở trên đồi, nhưng anh không biết cụ thể ở chỗ nào, và anh biết là nếu hỏi thăm người ngoài là thiếu khôn sáng. Anh đã bắt đầu đi lúc trưa và mất sáu tiếng đồng hồ sau mới đến chân đồi. Lúc đó, trời đã rất tối và có gai góc, bụi gai mọc dọc đường, thật sự là rất khó khăn. Tuy nhiên, Kiến vẫn cứ đi tiếp. Vào tối mịt, Kiến có thể nhìn thấy vài ánh đèn trên đồi. Anh đi theo hướng có ánh sáng. Vào lúc nửa đêm, anh mới tìm được nhà. Anh gõ cửa, và một ông già ra mở cửa. Khi ông thấy Kiến, ông rất ngạc nhiên, bà cụ đứng sau đã mời anh vào. Tất cả họ đều ngồi bên đống lửa và ông già hỏi Kiến đến từ đâu và tại sao anh lại đến vào lúc đêm hôm khuya khoắt này. Kiến nhìn xung quanh và trông thấy một thiếu phụ trẻ ngồi bên hai ông bà, nhưng không thấy có đứa trẻ nào. Anh bắt đầu ngạc nhiên và hỏi “Có phải đây là gia đình của anh Trương không?”
“Vâng, đúng rồi.” Bà cụ nhã nhặn trả lời.
“Vậy ở trong gia đình này có bao nhiêu người?”
“Cộng tất cả lại là năm.”
“Thế còn hai người nữa ở đâu?”
“Một người là đứa cháu tôi, nó vừa tròn một tuổi. Bây giờ nó đang ngủ. Người còn lại là con trai tôi. Nó đang ở trại ‘lao động’ vì cớ Tin Lành. Và đây là con dâu tôi.”
Khi Kiến nghe thấy điều đó, anh không thể không thốt lên: “Chúa ơi, cuối cùng Ngài đã đưa con đến nhà người anh em Minh.” Bố mẹ anh Minh và vợ anh đều rất ngạc nhiên. Kiến nói với họ, tại sao anh đến đây và có điều gì đã xảy ra dọc đường. Kiến lấy bốn yuan ra, đưa vào tay bà cụ và nói: “Xin bà hãy nhận lấy và mua sắm gì đó cho ngày tết năm mới”. Xong rồi, anh đứng lên và bắt đầu ra về. Nhà họ Trương không làm sao giữ anh ở lại được. Nên họ tiễn anh ra cửa và xúc động khóc.
Khi Kiến về nhà, vợ hỏi: “Anh ở đâu vậy? Anh có đem gì về cho năm mới không?” Kiến nói với vợ điều đã xảy ra và cô kêu thốt lên. Lúc đó, chưa đến hai mươi tám Tháng Một, với hai yuan còn lại, Kiến mới ra đi và mua ít thịt mỡ cho năm mới.
Vào buổi tối hôm Kiến trở về từ nhà anh Minh, anh có buổi nhóm tại nhà anh. Anh nói cho tất cả các anh chị em về gia đình anh Minh và nói: “Chúng ta có thể bớt phần ăn đi, để có thể giúp đỡ gia đình anh Minh.” Mọi người đều xúc động. Vào ngày hai mươi tám Tháng Một, một nhóm anh chị em đến thăm gia đình anh Minh. Họ đem theo gạo, bột, thịt mỡ, muối và giấm. Khi đến nhà anh Minh, tất cả họ đều khóc. Khi ra về, có vài người đã để áo choàng của họ lại cho nhà ông Trương. Đó là lần đầu tiên trong những năm qua, nhà ông Trương có một năm mới hạnh phúc. Nhưng Kiến có một ước mong chưa được thỏa nguyện. Đó là đến thăm anh Minh, là người đã bị đi cải tạo vì cớ Đấng Christ. Lúc đó là vào một ngày đẹp trời mùa xuân năm 1976. Anh Minh đang làm việc ở vườn rau. Khi nhìn lên, thấy những cây ăn trái, anh cảm thấy rất buồn. Anh suy nghĩ về Hội Thánh ở thành phố F và ở tỉnh J, về những anh chị em đang bị tù, về bố mẹ, vợ, và con trai. Anh không thể kìm được nước mắt.
Sau đó, người lính canh đến nói với anh là anh có người đến thăm. Vì thế, Minh đến phòng tiếp khách. Khi Minh bước vào phòng khách, có một người đàn ông đi lại bắt tay anh thắm thiết và nói: “Xin chào anh Minh, tôi là Thừa Kiến. Rất mừng được gặp anh. Tôi đã dự định đến thăm anh.”
Minh đã được nghe về Kiến và gia đình anh và các anh chị em khác, là những người nóng cháy vì Chúa. Bây giờ, Kiến đã đi một đoạn đường dài để thăm anh, làm anh rất xúc động, nên anh đã đưa Kiến ra vườn rau. Kiến kể cho Minh tình hình Hội Thánh ra sao và về lần đến thăm đầu tiên của anh tại gia đình Minh. Cả hai đều khóc. Trước khi anh ra về, Kiến đã đưa cho Minh năm hào trong một túi nhỏ. Minh không hiểu tại sao lại như vậy, nên Kiến đã nói với anh: “Trên đường đến đây thăm anh, tôi gặp một cháu gái chừng mười mấy tuổi. Gia đình và bố mẹ cháu đều không tin Chúa và cháu hay bị phạt khi đi nhóm về. Cháu luôn luôn cầu nguyện cho Hội Thánh và cho những người đang bị tù vì cớ Tin Lành. Cháu mong ước được đến thăm anh, nhưng vì cớ gia đình và lý do tài chính, cháu không thể đi được. Cháu nói với tôi, hãy đưa cái này cho anh, đây là số tiền cháu dành dụm được.
Khi Minh nghe thấy điều đó, anh không cầm được nước mắt và nói: “Tôi không thể nhận cái này được. Anh Kiến, anh hãy lấy tiền đó và mua một cái khăn tay cho cô em gái chúng ta. Hãy nói với em, hãy dùng chiếc khăn tay để lau nước mắt mỗi khi em cầu nguyện và khóc.” Trên đường về, Kiến đã làm như Minh bảo anh. Anh mua một chiếc khăn tay bằng số tiền của cháu gái. Nên cô em gái càng cầu nguyện khẩn thiết hơn và dùng chiếc khăn tay để lau những giọt nước mắt.
Kiến thường xuyên đến thăm gia đình Minh cùng với các anh chị em khác. Anh luôn luôn đến đây để giúp đỡ họ trong vụ mùa và để an ủi gia đình Minh trong những ngày lễ hội. Vợ của Minh đã rất xúc động, nên cuối cùng, cô đã tiếp nhận Chúa. Cho nên, có một sự phấn hưng trong gia đình của Minh trước khi Minh ra tù.
4. Thật, các ngươi sẽ uống chén mà Ta uống (Mác 10:39)
Vào một buổi tối mùa xuân năm 1978, trong khi Kiến đang giảng ở một làng không cách xa nhà anh bao nhiêu, anh đã bị bắt cùng với tám mươi anh chị em khác. Họ bị nhốt chung trong một phòng của căn nhà hành chính của đội sản xuất. Những người trong làng đến tập hợp bên ngoài và đả đảo họ, dùng những lời lẽ thậm tệ. Nên Kiến đã hướng dẫn những tín đồ hát tôn vinh Chúa.
Chúa Jesus đến Ghết-sê-ma-nê;
Những tên lính đến để bắt Ngài;
Giu-đa đến để hôn Chúa…
Sau khi họ hát được mấy câu, thì họ bắt đầu khóc. Họ vừa khóc vừa hát như vậy trong một tiếng rưỡi đồng hồ, và càng ngày hát càng to hơn.
Trước khi trời tối, có một cô bé mười ba tuổi đến với Kiến và nói: “Bác ơi, cháu đến dự buổi nhóm sau khi học về. Còn bây giờ cháu đã bị bắt. Nếu cháu không về nhà được hôm nay, bố cháu sẽ đánh cháu, và cháu sẽ bị đuổi học nữa.” Khi cô vừa nói xong, cô lớn tiếng nói và khóc.
Cánh cửa bị khóa và bị gài then chốt kim loại bên ngoài. Anh không thể mở được bằng sức lực của mình. Cô bé càng khóc to hơn. Trong phòng có hơn ba mươi chiếc ghế. Anh tự nghĩ: “Có thể dùng những chiếc ghế này đập cho cánh cửa mở ra.” Vậy nên, anh đã cầm chiếc ghế lên và chuẩn bị đập vào cánh cửa. Nhưng thình lình, một người anh em nói: “Kỳ lạ chưa, cánh cửa đã mở ra!” Tất cả họ đều giật mình và tôn vinh Chúa, sau đó chạy ra khỏi phòng. Kiến thì ở lại trong phòng, bởi vì phải có một ai đó chịu trách nhiệm cho những điều đã diễn ra, và một vài anh chị em cũng ở lại phòng với anh. Vào lúc đó, có một ông bác sĩ đi qua. Ông là người rất có uy tín trong vùng. Khi ông thấy điều xảy ra, ông nói: “Tốt hơn hết là các anh hãy chạy đi, dại gì mà ngồi đây chịu hình phạt? Bên cạnh đó, tin Chúa Jesus không phải là một tội hình sự trầm trọng. Tại sao lại ở lại? Hãy chạy đi!” Vì thế, họ đã chạy. Khi họ rời khỏi văn phòng, lúc đó trời đã tối.
Vào buổi sáng hôm đó, đội sản xuất có một buổi họp đột xuất liên quan đến chuyện những Cơ-đốc nhân kia. Quyết định cuối cùng là những Cơ-đốc nhân bị phạt sẽ phải trả tiền xem phim cho cả làng trong một năm.
Khi họ đến chỗ những Cơ-đốc nhân bị nhốt, họ kinh ngạc vì thấy cánh cửa mở và không có một ai ở trong đó. Chỉ có hai người có chìa khóa vào phòng: một người là bí thư và người kia là kế toán. Cho nên ông bí thư đi với một số người đến nhà của người kế toán. Họ hỏi vợ của ông kế toán: “Ai là người mở cửa cho những Cơ-đốc nhân tẩu thoát?”
“Không phải là chúng tôi đâu. Chúng tôi không hề mở cửa cho họ. Chúng tôi vô tội.” Vợ ông kế toán kêu la như hô hoán. Bà cầm lấy cổ áo ông bí thư và dồn ông ra ngoài, bắt ông thề giữa trời rằng, họ vô tội. Ông phải nhờ những nhân viên đi theo để thoát khỏi tay bà.
Nên họ đã trở lại văn phòng, mệt lả người và nói với nhau: “Chúng ta sẽ làm gì với những Cơ-đốc nhân này? Đi ‘học tập’ không ăn thua vì bọn chúng không sợ roi vọt và tra tấn. Cách duy nhất để truy quét chúng.” Họ cùng đi đến một ý kiến rằng, nếu các Cơ-đốc nhân bị bắt trong một buổi nhóm, chúng phải tìm một cây roi và bắt họ đánh lẫn nhau.
Vào Tháng Bảy cùng năm đó, Kiến phải đi lao động công ích ba mươi lăm ngày. Và người đội trưởng chỗ anh làm sẽ thi hành lệnh đó. Kiến rất bất bình. Anh cầu nguyện với Chúa khẩn thiết. Chúa nói với anh: “Ta biết sự khó khăn của con…” Anh được an ủi và sự bình an trở lại trong lòng. Sau đó, anh nghe một giọng nói rõ ràng trong lòng: “Ngày mười hai Tháng Tư.” Kiến nói: “Chúa ơi, con tôn vinh Ngài. Dù cho ngày đó có xảy ra điều gì, con đã sẵn sàng. Con vui mừng làm theo ý muốn Ngài.”
Thời gian trôi đi nhanh chóng. Chẳng bao lâu đến ngày mười hai Tháng Tư năm sau. Lúc đến chiều, Kiến có buổi họp với các bạn đồng lao. Trong khi anh đứng lên để đọc Lời Chúa, những công an an ninh đã ập đến. Chúng đánh đập anh. Kiến ngã xuống nền nhà, máu me bê bết. Sau đó, chúng đưa anh đến đồn công an. Trên đường lên đồn công an, đôi giày của Kiến hay bị tuột ra ngoài, nên anh đã cúi xuống để buộc chặt lại. Khi tên chỉ huy công an thấy vậy thì la lên: “Mày làm gì thế?” Tuy nó biết anh cúi xuống để buộc dây giày, nhưng hắn vẫn ra lệnh tháo giày Kiến ra. Con đường đó vừa mới làm xong, trải đầy đá nhọn sắc. Phải đi trên đó thật là đau đớn và Kiến gần ngất xỉu. Sau đó, anh đã nghĩ về Chúa: Về con đường của Ngài lên Gô-gô-tha, Ngài còn phải mang một thập tự giá. Kiến nói với Chúa: “Chúa ơi, tuy con đường con đi khó khăn, nhưng không thể so sánh với con đường Ngài đã đi. Cái chén con uống tuy đắng, nhưng vẫn không thể so sánh với cái chén mà Ngài đã uống.” Khi anh cầu nguyện xong, những viên đá dưới chân anh trở nên rất mềm. Kiến nhảy lên và kêu to: “Ha-lê-lu-gia!”
Cuối cùng, họ đến đồn công an an ninh, ở đó, Kiến bị hỏi cung. Anh không nói một lời nào, dù chúng có hỏi anh đến đâu. Tên chỉ huy công an rất giận dữ và ra lệnh đánh đòn anh. Vào lúc đó, có năm chị em tới, người lớn tuổi nhất chỉ mới mười chín. Họ đã cùng ở trong buổi nhóm của Kiến vào buổi tối hôm đó và đã bị giải theo anh suốt dọc đường. Khi họ trông thấy Kiến bị đánh, họ kêu lên: “Đấy là chúng tôi đề nghị anh ta giảng. Anh ta đã mắc tội gì? Nếu các ông muốn đánh anh ta, thì cũng hãy đánh luôn cả chúng tôi nữa.” Nên chúng đưa Kiến qua một phòng khác và khóa cửa lại. Chúng còng tay anh lại đằng sau lưng và treo anh lên một xà nhà trong phòng. Nhưng mái nhà quá thấp và chân của Kiến vẫn chạm được vào nền nhà. Nên chúng đã nghĩ ra cách tàn bạo hơn để làm cho Kiến đau đớn. Chúng đã trói khuỷu tay Kiến vào một xà nhà, sau đó buộc một cục đá to lên trên cây xà đó. Thật hết sức đau đớn. Anh tiếp tục cầu nguyện xin Chúa giải cứu mình. Cuối cùng anh ngất đi. Khi anh hồi tỉnh, lúc đó, trời đã tối. Kiến thấy mình vẫn còn ở trong căn phòng ngột ngạt đó và xung quanh có đầy muỗi. Anh suy nghĩ về đất nước mình và về sự nổi loạn chống lại Đức Chúa Trời; anh nghĩ về những anh chị em bị bắt vì cớ Chúa; anh nghĩ về Hội Thánh và sự bị cô lập. Anh nghĩ về nhiều anh chị em đã ngã xuống, anh không kìm được nước mắt và khóc thổn thức. Hai ngày sau, Kiến bị bắt phải làm việc. Anh bị bắt phải gánh cát để đắp đường. Nhưng vết thương anh chưa lành hẳn, nên anh đã ngất xỉu.
5. Hãy vững lòng bền chí (Thi Thiên 31:24)
Đó là vào đêm mùa đông lạnh giá năm 1979; anh Minh vừa ra khỏi tù và đang giảng ở một buổi nhóm ở trong một làng kia. Kiến cũng có mặt ở đó; anh là người hướng dẫn buổi thờ phượng. Chỗ nhóm chật ních người. Khi Kiến đi vào, anh thấy có một nhóm người đang tán chuyện làm anh rất ngạc nhiên. Anh hỏi một người chị em: “Có điều gì xảy ra thế? Tại sao họ lại không hát?” Người chị em trả lời, giọng thì thào: “Có một đảng viên đang ngồi đàng trước kia.” Kiến bèn đi lên và ngồi bên cạnh ông ta. Anh tự nghĩ: “Nếu ông ta đứng lên làm mất trật tự buổi nhóm, anh sẽ kéo ông ta xuống.”
Kiến đứng lên và hướng dẫn mọi người hát tôn vinh:
“Nguyện hết thảy cừu địch Ngài đều hư mất như vậy! Nguyện những kẻ yêu mến Ngài được giống như mặt trời, khi mọc lên rực rỡ.” (Các Quan Xét 5:31).
Khi họ vừa hát xong, Kiến hướng dẫn họ cầu nguyện. Sau đó, anh nói: “Bây giờ chúng ta sẽ dành thời gian còn lại cho đầy tớ Chúa là anh Minh”. Nên Minh đã đứng lên, đi về phía trước và bắt đầu giảng. Anh giảng về sự tái lâm của Chúa và những dấu hiệu xảy ra vào thời kỳ cuối cùng. Khi họ đang lắng nghe bài giảng của Minh, thì ông đảng viên đứng lên, nói: “Hãy ngừng lại và đi theo tôi!” Ông nắm cổ áo Minh và tìm cách lôi anh đi. Vào ngay lúc đó, Kiến chạy lại và dùng hết sức ôm chặt lấy ông ta. Kiến siết chặt ông ta đến nỗi ông ta không cựa quậy được. Vào lúc đó, anh Minh đã chạy thoát. Thế nên ông càng tức giận; ông thét vào Kiến: “Tôi biết anh làm gì rồi!”
Kiến đáp thẳng thừng: “Tôi cũng biết ông làm gì chứ! Tôi biết động cơ của ông!”
“Tôi biết động cơ của ông!” Kiến nói tiếp: “Ông chỉ bắt bớ những Cơ-đốc nhân chúng tôi; đó là tất cả những gì ông làm. Ông chỉ đến ngăn cản những buổi nhóm chúng tôi, nhưng chúng tôi không bao giờ ngăn cản ông. Đó là loại chính sách gì vậy?”
“Tôi là một đảng viên, anh phải nghe theo tôi!”
“Không, chúng tôi không nghe theo các ông; chúng tôi chỉ nghe theo Chúa mà thôi.”
Sau khi Minh đã chạy khỏi, Kiến buông ông đảng viên ra. Sau đó, anh hướng dẫn mọi người tiếp tục hát tôn vinh. Và rồi anh kết thúc buổi nhóm.
Tất cả đều trở về nhà; không một ai để ý đến ông đảng viên. Ông ta giận điên người và hăm dọa rằng: “Hãy đợi đấy!”
Vào ngày hôm sau, đội sản xuất đã tố tụng các Cơ-đốc nhân lên cho công an an ninh huyện. Mấy ngày sau, ông cán bộ đảng đó đã đi với một toán lính đến nhà của Kiến. Ông ta cười, vỗ vỗ vai Kiến và nói: “Hôm nay tôi mời anh lên uống nước chè với tôi; hãy đi theo tôi.” Sau đó, ông bảo với những kẻ đi cùng: “Hãy trói hắn lại!” Kiến bị bắt giải lên văn phòng đội sản xuất. Khi ông bí thư chủ tịch trông thấy anh, ông quát vào mặt Kiến: “Có phải anh là thằng Kiến khốn kiếp đó phải không?”
Kiến vẫn tỉnh khô. Ông cán bộ đảng liền điên tiết, đánh vào trán Kiến: “Đồ khốn nạn, đất nước chúng ta thật vững mạnh và hùng cường; con người sống một đời sống rất sung sướng, không ai bị đau khổ. Tại sao mày lại tấn công đất nước chúng ta?” Kiến thấy kinh ngạc. Anh không hiểu điều ông ta nói. Ông bèn tát má Kiến và nói: “Đừng giả vờ nữa! Mày là đứa đã lãnh đạo sự cầu nguyện trong buổi nhóm ở làng Guo.”
“Đúng thế.” Kiến trả lời.
“Sau khi cầu nguyện xong, mày nói: Bây giờ chúng ta dành thời gian còn lại cho những sự đau khổ.” (Chữ đầy tớ và đau khổ trong tiếng Trung Quốc phát âm gần giống nhau.)
“Không, tôi không hề nói như vậy.”
“Mày còn dám cãi nữa à! Đến khi chúng ta có tất cả các bằng chứng, thì mày liệu hồn.”Ông cán bộ đảng chạy lại và đấm vào đầu Kiến. “Chính tai tao đã nghe mày nói, hiểu chưa.”
Lúc đó Kiến mới vỡ lẽ điều ông ta nghĩ; anh nói: “À, tôi hiểu ra rồi, tôi có nói: “Bây giờ chúng ta sẽ dành thời gian còn lại cho đầy tớ Chúa, chứ không phải là cho những sự đau khổ. Ông đã nghe nhầm điều tôi nói.” Ông bí thư chủ tịch, có nhiều kinh nghiệm trong việc xử trí với Cơ-đốc nhân, và ông có một vài kiến thức về từ ngữ của họ hay dùng. Sau khi Kiến giải thích, ông bắt đầu hiểu. Nên ông nói: “Thôi được rồi. Ông X đã nghe nhầm. Nhưng tên đầy tớ có nghĩa là gì vậy?”
Kiến đáp: “Tên gì mới được chứ? Đầy tớ là một đầy tớ. Một tên đầy tớ là một đầy tớ. Nó còn có tên nào khác nữa.”
Ông bí thư chủ tịch rất thất vọng; ông nghĩ, Kiến chỉ là một gã nông dân dốt nát: “Đồ ngu! Mày mà cũng không biết đầy tớ có nghĩa gì à. Mày là loại người giảng đạo gì vậy?” Nên ông đã thôi không theo đuổi sự việc thêm nữa. Nhưng ông căm ghét Đức Chúa Trời và những Cơ-đốc nhân, và ông bắt đầu nói phạm thượng Đức Chúa Trời và sự giáng sinh của Chúa Jesus bởi nữ đồng trinh. Kiến tức giận; anh đứng lên và đập tay vào bàn. Anh mắng ông chủ tịch: “Ông hãy câm đi! Đừng nói xúc phạm đến Đức Chúa Trời của tôi! Ông nói tôi không biết gì. Nhưng còn ông thì biết những gì? Thậm chí ông còn không biết chính sách của đảng nữa kìa.”
Ông chủ tịch thẹn tím mặt; ông thưởng cho Kiến một cái tát: “Được. Hãy nói cho tao biết đi, mày biết điều gì?” Những tiếng nguyền rủa và nạt nộ phừng phừng kéo theo, nhưng Kiến là một con người vui tính; ở ngay trong hoàn cảnh đó, anh đứng thừ người và cảm thấy buồn ngủ. Khi ông bí thư chủ tịch thấy như vậy, ông càng tức giận hơn. Ông lại tát vào mặt Kiến. Kiến vẫn đứng như vậy và gật gù buồn ngủ. Cuối cùng anh cũng được thả ra.
Vào một ngày mùa đông đổ tuyết khác năm 1978, Kiến thức dậy vào buổi sáng sớm để cầu nguyện giữa trời tuyết. Anh tự nghĩ: “Thật là một cơ hội quý giá để ra đi giảng Tin Lành.” Bình thường, nếu anh đi ra truyền giảng, anh phải xin phép đội trưởng sản xuất cho nghỉ mấy ngày. Bởi vì trời tuyết, nên anh không phải làm thế; anh cứ việc đi. Khi Kiến đi vào nhà lấy Thánh Kinh, con trai anh nói: “Bố ơi, bố cho phép con nói điều này không?”
“Tất nhiên rồi, điều gì thế con?”
“Nếu bố đi lần này, bố có thể mua cho chúng con một cái bơm máy được không?”
“Để làm gì thế con?”
“Bởi vì bố và mẹ thường hay bị bắt và bị nhốt trong tù, và chúng con thì còn nhỏ. Nếu chúng con đi lấy nước, chúng con rất khó khăn. Nếu bố có thể mua cho chúng con một cái bơm, và chúng ta có thể đào một cái giếng trước sân nhà. Để cho, nếu lần sau bố bị bắt, chúng con vẫn có nước uống.”
Kiến rưng rưng nước mắt; anh nói trong thâm tâm: “Chúa ơi, con cám ơn Ngài, vì ngay cả con trẻ cũng biết sự bắt bớ gian khổ là gì.”
Kiến đi lên tỉnh, anh tìm mua một cái máy bơm. Bây giờ chính quyền biết Kiến là một con người có nhiều ảnh hưởng và anh sẽ không chịu luồn cúi, nên họ đã nghĩ ra một mưu kế. Cơ quan huyện gởi cho anh một lá thư mời anh đến dự một buổi họp cấp huyện và trở thành một thành viên của ủy ban. Khi đội sản xuất nhận được lá thư, họ đã ghen tức: “Cái gì? Mời tên Cơ-đốc nhân này lên họp trên huyện à?” Họ không biết làm gì hơn là tuân theo mệnh lệnh. Nên họ đã cử hai đảng viên đưa lá thư đến cho Kiến.
Khi họ đến nhà của Kiến, họ nói rất từ tốn: “Anh đến dự cuộc họp trên huyện là một vinh dự đối với chúng tôi. Anh phải cố gắng và nói là chúng ta đã làm việc tốt ra sao.” Kiến cầm lấy lá thư và đọc, để sang một bên và nói: “Tôi chỉ là một nông dân, làm sao tôi có thể là một thành viên ủy ban được?”
Họ đến với Kiến ba lần bốn lượt, nhưng Kiến vẫn phớt lờ. Cuối cùng, chính quyền huyện đã gọi điện thoại cho đội sản xuất bảo phải làm sao cho Kiến đến cuộc họp trên huyện. Nhưng Kiến vẫn không chịu đi. Nhà cầm quyền tức giận và cử một cán bộ đến gặp riêng Kiến.
Đội sản xuất gọi Kiến lên, nhưng Kiến từ chối không lên. Anh nói: “Tôi phải làm mấy thứ đồ gỗ, phải đến một thợ mộc, nên không đi được.” Người cán bộ rất bực mình: “Họ đã cử một cán bộ để đến gặp anh và anh vẫn không chịu đi. Anh…”
Kiến tiếp tục nói: “Nếu có điều gì cần thiết, hãy nói với ông ta đến thẳng nhà tôi.” Ông cán bộ không biết làm gì nên ra về.
Sau đó, ông ta đến nhà Kiến cùng với các nhân viên. Kiến đứng dậy và để cho những nhân viên ngồi trên chiếc giường gãy của mình. Người cán bộ thấy khó chịu và một lúc lâu không nói được câu nào. Sau đó Kiến nói với ông ta một cách đàng hoàng:
“Ông muốn gì ở tôi?”
Ông cán bộ nhìn vào Kiến và hỏi anh:
“Anh có nhận được ‘Mười không’, mà chúng tôi đã đưa cho anh chưa?”
“Chưa.” Anh trả lời.
Ông cán bộ đảng xen vào: “Chúng tôi đang lược thảo. Nhưng chúng tôi rất bận; chúng tôi vẫn chưa đưa.”
“Tôi chưa nhận được; tuy nhiên, tôi có nghe nói về những điều đó. Có phải trong đó nói rằng không ai dưới mười tám tuổi được trở thành Cơ-đốc nhân không?”
“Đúng thế.”
“Không được cầu nguyện cho người bệnh? Không được đuổi quỷ?”
“Đúng y như vậy.”
“Tôi không cần biết là có bao nhiêu không trong đó, nhưng vừa mới xem những điểm đầu tiên, tôi không thể chấp nhận được.”
“Anh dám bài bác sao?”
“Không, đó không phải là bài bác. Hãy để cho tôi hỏi các ông: Tôi có năm đứa con, đứa lớn nhất vừa mới mười tám. Chúng tôi có năm buổi nhóm chiều mỗi tuần. Vào mùa xuân trời hay mưa, mùa thu trời gió và mùa đông thì lạnh. Tôi có thể nào để con tôi ngoài trời và để chúng đợi đến khi buổi nhóm kết thúc chăng? Nếu các ông là tôi, các ông có làm như vậy không?”
Ông cán bộ câm tịt, nên ông đã thay đổi đề tài. Và ông hỏi Kiến: “Tại sao anh lại không đến cuộc họp trên huyện?”
“Tôi không thể chấp nhận ‘mười không’ của các ông được! Và đó là lý do tại sao tôi lại không đi.”
“Đó không phải là chúng tôi đưa nó ra; nhưng là do một người chăn trong tỉnh đề ra. Ông ta biết Thánh Kinh giỏi hơn anh.”
“Ông ta có tin Chúa Jesus không?”
“Tất nhiên rồi. Làm sao ông ta là người chăn mà không tin Chúa Jesus được?”
“Không, tôi không tin là ông ta tin Chúa Jesus. Vì trong Thánh Kinh chỉ có ‘mười điều răn’ thôi; chứ không có cái gì gọi là ‘mười không’ cả. Tôi phản đối kịch liệt loại giả hình tôn giáo này.”
“Tôi không tranh luận với anh. Lý do tôi đến đây hôm nay là mời anh tham dự nhà thờ ba độc lập của chúng tôi và ủng hộ công việc của chúng tôi.”
“Trong Thánh Kinh không có loại nhà thờ ‘ba độc lập’ nào cả, và tôi sẽ không đi theo.”
“Liên kết với chúng tôi không có nghĩa là anh không được cầu nguyện hay nhóm họp. Thế thì tại sao anh lại không nghe chúng tôi?”
“Chúng tôi chỉ nghe theo Đức Chúa Trời, chứ không nghe theo con người.”
Ông cán bộ trở nên giận dữ và ông nói: “Nếu không liên kết với tổ chức tôn giáo của chúng tôi, tất cả mọi buổi nhóm trong nhà anh đều là bất hợp pháp và sẽ bị đình chỉ.”
“Không, chúng tôi không ngưng nhóm. Thánh Kinh không nói bỏ sự nhóm họp lại với nhau.”
“Nếu anh không ngừng lại, anh sẽ phải chịu trách nhiệm về mọi tội phạm hình sự trong làng.”
“Nếu đó là lý do an ninh, thì các ông hãy ngưng chiếu những loại phim ảnh và các cuộc chơi. Chúng tôi chỉ ngừng nhóm khi những cái đó cũng ngưng.”
Mười ngày sau, ông chủ tịch gọi Kiến lên văn phòng đội sản xuất và nói: “Lần cuối cùng tôi thông báo cho anh biết rằng, không được sự chấp thuận của chúng tôi, tất cả những buổi nhóm trong nhà anh là bất hợp pháp. Tại sao anh lại không thể nghe theo và ngừng nhóm đi?”
Kiến tươi cười: “Ông có nhớ sự thỏa thuận của chúng ta không? Chúng tôi chỉ ngừng nhóm lại khi mọi hoạt động khác trong làng cũng bị ngừng. Đó là ông đã vi phạm sự thỏa ước giữa chúng ta, không phải tôi. Tại sao ông lại có thể trách tôi vì điều đó?”
Ông chủ tịch nghiến răng và nói: “Những người cộng sản cuối cùng cũng sẽ giỏi hơn anh. Anh hãy đợi đấy!”
“Được, nếu ông cứ vô lý như thế, tôi nghĩ rằng, tốt hơn hết là tôi ra về.”
“Anh sẽ phải chịu hoàn toàn hậu quả.”
“Đức Chúa Trời của tôi sẽ chịu những hậu quả.” Kiến trả lời to, sau đó, anh đã ra về và không thèm ngoái đầu lại. Cuối cùng, họ đã trình thưa trường hợp của Kiến lên công an an ninh ở thành phố B.
6. Thế gian đã không xứng đáng đối với họ (Hê-bơ-rơ 11:38)
Vào một ngày kia, Kiến nghe thấy một giọng nói rõ ràng trong lòng anh: “Con phải rời khỏi gia đình trong vòng ba ngày.” Vào buổi tối hôm đó, trong khi Kiến đang giảng, Chúa lại nói với anh lần nữa: “Hãy chọn một ai đó để đảm trách công việc của con; hãy khăn gói và đi càng sớm càng tốt.”
Sau buổi nhóm, Kiến gọi tất cả các anh em nhân sự lại và nói với họ. Sau khi đã thực hiện xong sự xếp đặt, họ cùng dâng Kiến lên cho Chúa và khóc. Sau đó, họ đều ra về. Đến khi Kiến về nhà, anh đem theo một ít đồ đạc: một quyển Thánh Kinh và một vài quyển ghi chú. Sau đó, vợ và các con tiễn anh ra cửa. Lúc Kiến ra đi, trời đã tối đen như mực.
Ba ngày sau, một chiếc xe công an đến đậu trước cửa nhà Kiến. Một số công an và một toán binh lính đã đi thẳng vào nhà. Họ lục soát căn nhà, nhưng không tìm thấy Kiến. Nên họ đã hỏi cung vợ Kiến và các con, nhưng tất cả đều nói không biết Kiến ở đâu. Sau đó, họ quay sang đứa con gái của Kiến, mười ba tuổi. Họ xách tai đứa bé lên và hỏi: “Bố mày ở đâu?” Cháu trả lời: “Tôi không biết!” Chúng tát má cháu; máu mồm và máu mũi chảy ra. Một tên trong bọn định treo cháu lên, nhưng cháu rất nhanh chân chạy vụt ra khỏi nhà, trước khi chúng có thể bắt được, cháu đã chạy trốn xuống một cái hố. Nước ở đó ngập sâu và bẩn, nên chúng không hành hạ cháu nữa và bỏ đi.
Kể từ ngày đó, Kiến sống trốn tránh trong hai mươi mốt tháng. Anh Minh, chị Bài, và một vài anh chị em khác nữa cũng như vậy. Họ thường ngủ đêm trên đồi, trong rừng, trong bụi cây và trên những cánh đồng. Họ phải chịu giá lạnh và gió rét và bị muỗi cắn. Họ không thể đến nhà của những tín đồ trước khi trời tối. Và Chúa luôn luôn giải phóng họ khỏi tay kẻ thù. Họ và công an cứ giống như chơi trò ‘ú tim’. Bất kỳ lúc nào có cơ hội, họ đều giảng Tin Lành và nhắc nhở anh chị em hãy phục vụ Chúa hết lòng.
Có một thời kỳ, công an an ninh đã đuổi sát gót họ; họ dường như thở không kịp. Nên họ đã đến một thị trấn có tên He-Ping thuộc tỉnh R. Tình hình an ninh ở đây rất căng thẳng, nên các anh chị em không dám đón tiếp họ. Không thể đi đâu được, nên họ đã ra một chuồng ngựa. Thấy đâu cũng có phân ngựa; thậm chí không thể tìm được một chỗ để đứng. Cuối cùng, họ nhặt được một ít rơm, rồi chui vào đó mà ngủ. Trời càng khuya càng trở nên lạnh, họ đều run rẩy. Nên họ đã quyết định đi ra khỏi chỗ đó và chạy bộ để chống lại cơn lạnh. Trong khi đang đi ngoài đường, họ gặp anh Minh và anh Yun. Và họ đã cùng chạy với nhau, rời khỏi tỉnh R.
Khi họ đến một vùng có tên là Liu Shan, Kiến muốn đến thăm một người bà con ở đây và để xem gia đình họ sống ra sao. Anh Minh biết rằng, gia đình này vì cớ Kiến mà sẽ chịu nhiều khó khăn, nên khuyên Kiến phải trở về sớm và không ngủ đêm lại đó. Khi Kiến đến nhà người bà con, anh được tiếp đón nồng hậu, họ không muốn để cho anh đi, nên Kiến đã ở lại. Vào nửa đêm, khi Kiến đang ngủ, thì những người bên công an an ninh ập đến, họ bao vây căn nhà và lục soát từng phòng. Ở trong nhà có bốn phòng. Khi họ lục soát đến phòng thứ ba, Kiến rất sợ hãi, nên anh đã giao phó mình trong tay Chúa. Sau đó, anh nhận thấy có một cái rương bên cạnh chiếc giường. Nên anh đã giở nắp ra lấy chăn chiếu trong đó để lên giường và anh thì chui vào trong rương và đậy nắp lại. Khi Kiến trốn xong thì các tên công an vào. Họ quét đèn pin tìm anh mọi nơi. Một trong những tên đi theo đã lấy gậy đập trên nắp rương. Kiến sợ là chúng sẽ giở nắp rương, nhưng chúng đã không làm điều đó. Sau đó, một lúc chúng bỏ ra về.
Sau khi những công an an ninh đã ra về, những người họ hàng của Kiến đã chạy vào tìm anh. Họ tìm anh trong mỗi căn phòng, nhưng không thấy anh đâu. Kiến không biết đó là họ, nên anh không dám cựa quậy. Sau đó, bà cụ vào, lo lắng nói: “Anh ta đi đâu rồi kìa?” Kiến nhận ra đó là bà cụ, bèn nói: “Cháu ở đây. Họ đã đi khỏi chưa?” và anh đứng dậy. Khi họ thấy anh. Họ thật sung sướng và tôn vinh Đức Chúa Trời. “Đúng là chúng tìm chúng tôi; tốt hơn hết là tôi phải đi và báo cho các anh em biết.” Nên Kiến đã chạy bộ ba mươi cây số và cuối cùng tìm đến chỗ Minh và những người khác ở, rồi, họ đã chạy ra cánh đồng, ngủ đêm ở đó.
Vào một buổi tối, Kiến trở về nhà và ở đó ba ngày. Ban ngày, vợ anh và các con đi ra đồng làm việc và cửa nhà thì khóa. Những lúc anh ho hay hắt hơi, anh phải trùm chăn lại; và anh cảm thấy rất cô đơn. Vào buổi tối thứ ba, Sa-tan đã đến, tấn công anh. Trong khi anh đang ngủ, có một con chuột cống đã đến, cắn vào cánh tay anh, làm thương một cái gân tay và chảy máu rất nhiều. Chỗ chảy máu không cầm lại được. Cả gia đình anh quỳ gối xuống cầu nguyện và kêu cầu lên Đức Chúa Trời; thình lình máu ngưng lại. Nhưng tay của anh vẫn bị sưng và rất đau.
Kiến trở lại chỗ Minh và những người khác. Anh đi đến nhiều nơi. Bất kỳ nơi nào anh đi, anh đều gây dựng Hội Thánh và tìm cách trốn tránh công an an ninh.
7. Họ được kể là xứng đáng chịu nhục vì danh của Ngài (Công Vụ Các Sứ Đồ 5:41)
Kiến, Minh, Yun, và một vài người khác đã tổ chức một lớp huấn luyện vào Tháng Một năm 1984. Vào buổi tối đó, anh đi ra sân đằng sau nhà; anh quỳ gối xuống tuyết và cầu nguyện. (Sự kiện này được nhắc lại trong câu chuyện “Người Công Dân của Thiên Quốc”). Chúa đã chỉ cho anh rất rõ là trong ba ngày nữa, một vài người trong số họ sẽ bị bắt.
Vào buổi sáng thứ ba, khi họ đang nhóm lại với nhau, Kiến đứng lên và nói: “Hôm nay có vài người trong chúng ta sẽ bị bắt vì cớ Chúa. Chúng ta hãy cầu nguyện dốc đổ cho những người đó.” Vào buổi tối đó, Kiến, Yun và ba người khác đã bị bắt trên đường về nhà sau buổi nhóm.
Công an đánh Kiến bằng một cây gậy, nhưng kỳ lạ là anh không cảm thấy đau đớn gì. Khi họ thấy những cây gậy giáng trên người không ăn thua gì với Kiến, chúng đẩy anh xuống nền nhà và trói quặt tay anh đằng sau lưng. Từ khi anh bị chuột cắn, cánh tay anh vẫn còn bị thương, nên nếu anh bị trói ngoặt lại như vậy, rất có thể anh sẽ bị tật nguyền. Điều kỳ lạ là tay phải của Kiến bị vết thương bấy lâu nay, sau khi anh bị trói đã không bị đau nữa.
“Anh đến từ đâu?” Chúng hỏi anh.
“Tôi đến từ thành phố F”. Tôi chỉ đi ngang qua đây. Khi tôi thấy có buổi nhóm ở đây, tôi mới vào xem.” Kiến trả lời.
“Buổi nhóm ở đâu, hãy đưa chúng tôi đến đó.” Chúng ra lệnh cho anh, nên Kiến đã đưa họ đến một trường trung học và đứng bên ngoài.
“Đây, đây là địa điểm.” Các công an an ninh và binh lính nhảy xổ vào trong. Có một nhóm thầy giáo đang chuẩn bị giáo án. Khi họ thấy công an đi vào thì một người đứng lên hỏi: “Các anh làm gì ở đây?”
Công an an ninh tỏ ra rất bực tức; nên chúng càng đánh Kiến nhiều hơn: “Hãy khai ra đâu là chỗ nhóm lại? Nếu mày không nói cho chúng tao biết, chúng tao sẽ giết mày!” Kiến muốn cho các anh em biết là công an an ninh đến nên đã lớn tiếng nói: “Tại sao các ông lại đánh tôi như vậy? Tôi đã quên họ nhóm lại ở đâu rồi.”
Cùng lúc đó, Yun đã được các công an giải đến. Nên anh đã la to: “Tôi đến từ thiên quốc; tôi không biết họ nhóm lại ở đâu.” Các anh chị em ở nơi nhóm lại nghe thấy tiếng nói của Kiến và Yun, nên họ đã dời sang nơi khác ngay. Công an biết rằng, họ đã bị lừa, nên rất tức giận. Chúng nói: “Thôi, bây giờ hãy đi, về đồn, chúng mày sẽ biết tay.” Chúng đẩy Kiến lên chiếc xe tải. Bởi vì tay Kiến bị trói, anh đã bị tuột xuống và ngã xuống tuyết. Bọn lính xốc anh lên và quẳng anh lên thùng xe. Đầu anh đập vào thành xe, anh bất tỉnh. Khi những anh chị em thấy điều đó, họ rất đau buồn và khóc; họ không dám nói một lời nào.
Chúng đưa Kiến và ba anh em kia đến đồn công an Shi Lin. Khi họ đến, Yun đã có mặt ở đó; tất cả đều bị còng tay. Năm người họ run rẩy vì trời lạnh, nên họ đã quỳ gối xuống cầu nguyện, và họ đã cầu nguyện dốc đổ.
Sáng sớm hôm sau, họ bị đưa ra sân sau để xúc tuyết. Sau đó, Kiến, Yun, và một anh em bị đưa đến nhà tạm giam. Ở đó đã có tám người. Khi cai tù thấy hai người mới đến, hắn chống nạnh, nhìn họ gườm gườm. Hắn thét lên rằng: “Hãy lại đây!” Kiến và Yun vâng lời, sau đó, hắn nói: “Bây giờ tao sẽ cho chúng mày làm vài việc – đó là ‘câu cá’ và ‘chạy xe máy’.”
Cái gọi là ‘câu cá’, là một hình thức tra tấn rất dã man. Tù nhân phải lấy một cọng rơm cho vào miệng và nhúng vào thùng nước tiểu. Sau đó phải thổi thành những cục bong bóng cho đến khi nước tiểu bắn đầy mặt. Tên cai ngục cứ cười và diễu cợt: “Chúng mày có nhận được gì không?” Loại hình tra tấn thứ hai ‘chạy xe máy’ là tù nhân phải ngồi chồm hỗm, giống như ngồi trên ghế, và giơ hai tay ra, phải làm tiếng còi xe lửa hú. Nếu ai không làm được, hay ngừng làm, sẽ bị hình phạt nặng nề. Chao ôi! Đã có bao nhiêu đầy tớ trung tín của Chúa đã bị làm nhục và hành hạ ở đây. Quả thật, thế gian không xứng đáng cho họ. Tên cai ngục ra lệnh cho những tù nhân khác đánh Yun. Sau khi Yun bị đánh, anh ngã xuống nền nhà. Còn những tù nhân khác thì đạp lên anh. Máu chảy xối xả từ miệng anh; anh như là gần chết.
Đầu tiên Kiến và Yun giả vờ họ không biết nhau. Nhưng khi Kiến thấy Yun bị đánh quá chừng, anh không thể giả vờ được nữa. Anh chạy lại với Yun, đỡ anh và khóc. Anh xin Chúa hãy an ủi và che chở Yun, và anh đã chùi máu đang trào nơi miệng Yun.
Sau đó ít ngày, những tù nhân thấy Kiến thật dễ mến và dễ gần, họ bắt đầu thích anh và họ nói anh hãy hát cho họ một bài hát. Nên Kiến đã bắt đầu hát và anh đã chia sẻ Tin Lành cho họ, trong khi đó Yun cầu nguyện dốc đổ cho họ. Họ đã làm điều đó trong ba ngày liền. Vào ngày thứ tư, Kiến bắt đầu hát, sau khi anh đã thức dậy:
Hôm nay là một ngày tuyệt vời;
Là ngày Chúa đã dựng nên;
Ngài dọn bàn cho tôi trước mặt kẻ thù nghịch tôi.
Ngày hôm nay, Chúa ở với tôi.
Những tù nhân khác chú ý lắng nghe; dường như họ hiểu những gì Kiến đang hát. Sau khi ăn sáng, xe công an đến đưa Kiến đi. Những tù nhân khác rất ngạc nhiên, họ nói với nhau: “Ô! Thật con người này là cái gì đó; Anh ta hát về một ngày tuyệt đẹp hôm nay và bây giờ thì được thả ra!” Họ bắt đầu suy nghĩ về những gì Kiến đã chia sẻ với họ trong những ngày vừa qua và một vài người trong số họ đã tiếp nhận Chúa.
Trong lúc đó, thì công an an ninh đã khóa còng tay và xiềng chân Kiến lại và trói anh vào ghế xe công an. Họ đi chưa được bao xa thì chiếc xe bị hỏng và dừng lại. Ông chỉ huy quát vào mặt Kiến: “Tao cấm mày chạy!” Kiến tươi cười: “Ông có đùa không? Tôi bị còng tay và xiềng chân, lại bị trói chặt vào ghế xe, làm sao tôi có thể chạy được?”
Tên chỉ huy tức giận và nói: “Cấm mày cười! Chúng tao phải tốn vài nghìn yuan để bắt mày, và bây giờ thì cái xe bị hỏng; mày phải trả giá cho mọi cái.”
Kiến mỉm cười nói: “Tôi không đòi hỏi ông làm điều đó. Đó không phải là lỗi tại tôi.” Ông chỉ huy lấy ra một cái roi kim loại và ném vào Kiến. Kiến quay đầu để tránh, nhưng anh không thể tránh được, nó đã đập vào trán và trán anh bị thương nhẹ và bắt đầu chảy máu.
Trong lúc đó, có một đám đông vây xung quanh họ. Vài người thì nguyền rủa và nhổ nước miếng vào anh, nhưng những người khác thì chỉ tay vào công an và nói, “Người gì mà vô nhân đạo quá.” Công Vụ Các Sứ Đồ 5:41 liền đến trong tâm trí anh: “Họ vui mừng vì họ được kể là xứng đáng chịu nhục vì danh của Ngài.” Kiến mỉm cười. Những người xung quanh thấy rất kinh ngạc và nói: “Người này là giống gì vậy?” Có nhiều cặp mắt nhìn vào, ông thủ trưởng không biết phải làm gì. Nên đến khi chiếc xe đã sửa được, họ liền chạy mất.
Chiếc xe chạy đến và đứng bên ngoài cổng nhà tù. Những tên lính canh gác đẩy Kiến xuống khỏi xe và ông chỉ huy hỏi anh: “Mày có biết chỗ này không?”
“Không!”
“Không? Đây là nhà tù nổi tiếng ở thành phố F, và đây là chỗ của mày.”
“Chỗ của tôi? Ha, ha!”
“Đừng có mà tẩu thoát! Nếu mày chạy trốn, mày sẽ chết ở đây!”
Không khí trong nhà tù rất căng thẳng đến nỗi kẻ mới đến không dám thở. Kiến bị lục soát khắp thân thể, cả thắt lưng và dây giày của anh cũng bị tịch thu. Kiến bị đưa đến một căn phòng và một tù nhân già ở đó nói với anh rất nghiêm túc: “Anh đừng tin những gì họ nói, anh phải nói sự thật.” Kiến mỉm cười và nói: “Xin cám ơn về sự quan tâm của ông. Tôi tin vào Chúa Jesus, không có gì để giấu cả. Bên cạnh đó, Chúa của tôi sẽ lo cho tôi.”
Vào buổi chiều hôm đó, Kiến bị tra khảo. Họ hỏi anh về Hội Thánh ở huyện B. Kiến dạn dĩ và can đảm; anh sử dụng sự khôn sáng mà Đức Thánh Linh ban cho anh để trả lời những câu hỏi. Chúng cởi áo anh ra và đánh đòn anh. Anh nghiến răng chịu đựng và không hé môi kêu chút nào.
Những kẻ tra tấn điên khùng đó dùng mọi loại tra tấn để hành hạ anh. Khi chúng dùng một thanh sắt nung đỏ để gí vào thân thể anh, anh không thể chịu được. Anh kêu lên: “Cha ơi, xin hãy giải cứu đứa con của Ngài!” Sau đó, anh ngất đi. Một xô nước lạnh xối lên anh, Kiến hồi tỉnh trở lại. Sau đó, lại là sự tra khảo và tra tấn tiếp tục. Điều đó lặp đi lặp lại năm sáu lần; Kiến bị thương nặng.
Bảy tháng trôi đi. Vào một đêm Chúa báo với Kiến: “Khi cây cối bắt đầu đâm chồi, con sẽ rời khỏi đây.” Mùa đông đã đi qua, mùa xuân đã đến. Hằng ngày, Kiến nhìn ra cửa sổ xem cây cối có đâm chồi chưa. Đó là một ngày đẹp trời, buổi sáng còn mờ mờ và mặt trời vừa mới chiếu những ánh đầu tiên. Kiến đã quỳ gối trong xà-lim, cầu nguyện mấy tiếng đồng hồ. Khi anh mở mắt ra, thấy ánh sáng chiếu rạng và anh đứng lên, vỗ tay và tôn vinh Chúa. Bỗng nhiên anh nhìn thấy một cành cây vắt ngang qua cửa sổ và nó bắt đầu đâm chồi nảy lộc.
Nước mắt rưng rưng và anh nói thầm: “Chúa ơi, con tôn vinh Ngài. Tuy con không biết điều gì xảy ra phía trước, con xin phó thác mọi sự vào tay Ngài. Chúa ơi xin hãy gìn giữ con.” Trong những ngày sắp tới, Kiến bị kết án tù hai năm vì đã gây rối an ninh quốc gia.
Kiến bị bắt đưa đến trại cải tạo ở Xin Yan. Đó là một trại cải tạo khét tiếng trong tỉnh. Ở đó, tù nhân bị hành hạ tàn bạo. Mỗi tù nhân chỉ được phát cho một bát cơm mỗi ngày và phải làm việc nặng nhọc mỗi ngày trên mười hai tiếng. Đó là lý do tại sao các tù nhân rất gầy ốm. Ngoài ra, họ còn bị đánh đập và tra tấn nữa.
8. Ngài bẻ ra… đưa cho các môn đồ và họ ăn (Lu-ca 9:16,17)
Bạn càng luyện vàng bao nhiêu, nó càng trở nên tinh ròng bấy nhiêu. Tuy mỗi ngày thể lực Kiến càng trở nên yếu hơn, nhưng trái tim anh càng ngày càng được đổi mới và anh càng trở nên mật thiết với Chúa hơn. Kiến không bỏ lỡ một cơ hội nào để bày tỏ tình yêu đối với mọi người và cứu vớt những linh hồn.
Trong phòng anh có hơn hai mươi người. Anh vui tính và dễ gần, và những tù nhân khác nhìn vào anh như nhìn thấy một người cha. Bởi vì nhân cách đôn hậu của anh mà có nhiều người đã tiếp nhận Chúa.
Hai năm trôi qua, trước khi Kiến được thả ra, anh được gọi lên. Họ nói với anh: “Mọi người đều được thay đổi mỗi khi họ ở đây. Bây giờ anh đã ở đây hai năm, anh có thay đổi không?”
Kiến tươi cười trả lời: “Chúa Jesus sống trong lòng tôi; không cần biết là tôi phải ở đây bao nhiêu năm, mười hay hai mươi năm, tôi vẫn không thay đổi. Nếu các ông có giết tôi, Chúa Jesus sẽ đưa tôi về trời.” Ông ta rất tức giận, ông chỉ ngón tay vào mũi Kiến và nói: “Nếu tao còn bắt được mày nữa, tao sẽ làm thịt mày!” Sau đó ông hét lên: “Hãy cút ngay!” Kiến vui mừng đi khỏi.
Gia đình của Kiến đã phải chịu bắt bớ và hành hạ nhiều vì cớ Chúa. Họ luôn luôn nhận được càng ít lúa giống và càng xấu hơn. Nhưng Thánh Kinh nói với chúng ta: “Thà ít của mà công bình, còn hơn giàu có mà gian ác.” Lời Đức Chúa Trời đúng thật. Khi đó, lương thực khan hiếm; cuộc sống rất khó khăn đối với mỗi người. Nhưng gia đình Kiến lúc nào cũng đủ ăn. Đức Chúa Trời luôn luôn từ ái.
Vào một mùa xuân, ba tháng trước mùa gặt, gia đình Kiến chỉ còn lại một nửa thúng khoai lang. Thông thường, chừng đó chỉ đủ cho hai ngày. Khi Kiến đem một ít đi xay, thì thật kỳ lạ, lượng bột thu lại nhiều gấp không biết bao nhiêu lần. Cả gia đình Kiến quỳ gối xuống và cảm tạ trong nước mắt.
Vào một ngày nọ, có một tín đồ trong làng đến nhà anh và nói: “Anh ơi, gia đình tôi có sáu người, tôi chỉ còn lại có ba mươi cân thóc, chừng đó chỉ đủ cho nửa tháng là cùng. Nhưng chúng ta còn ba tháng nữa mới đến mùa gặt, anh có biết là ai có thể cho mượn tiền hay là lương thực không? Kiến trả lời: “Hãy cứ tin cậy Chúa, Ngài sẽ giúp đỡ anh!” Nên người tín đồ đã về nhà. Cứ năm ngày, anh lại lấy bảy cân rưỡi đi xay bột. Anh cứ làm như vậy trong ba tháng mà vẫn còn lại mười lăm cân!
Có một lần, Kiến đến tỉnh M để giảng Tin Lành ở đó. Trong một buổi giảng, có một phụ nữ đã đến với anh, bồng đứa con trên tay. Nó đã chết. Kiến đã đặt tay trên nó và kêu to: “Trong Danh Chúa Jesus tôi truyền cho em hãy dậy đi!” Ngay lập tức, đứa trẻ mở mắt và vùng dậy.
Vào một lúc khác, Kiến hướng dẫn một buổi báp-tem ở một con sông trong tỉnh đó. Có một đứa trẻ bị câm từ lúc mới sinh ra, khi lên khỏi nước, nó đã la lên: “Ha-lê-lu-gia! Tôn vinh Chúa!”
Có một lần, một anh em họ Trương bị bắt. Chính quyền gọi một đám đông đến để xem anh bị tra tấn. Họ muốn làm điều đó để làm cho dân chúng sợ, đừng tin Chúa Jesus. Chúng treo ngược anh lên, chúng đánh đập và đấm đá anh. Anh kêu lên với Chúa: “Chúa ơi, Phi-e-rơ đã bị treo ngược lên vì cớ Ngài! Nhưng con không xứng đáng!”
Khi những anh chị em nhìn thấy điều đó, họ đã khóc nức nở. Ngay cả những người vô tín cũng khóc nữa. Dẫu sao, những kẻ bắt bớ các Cơ-đốc nhân đều gặp một kết cuộc thảm hại. Có một sĩ quan ở quân đội, rất căm ghét Cơ-đốc nhân. Có lần khi Kiến bị bắt, hắn trói chặt anh và để anh ngoài hành lang, đạp và nện thình thịch lên lưng anh. Và hắn nói: “Tao không đạp mày, mà tao đạp Chúa của mày; tao không trói mày, mà tao trói Chúa của mày. Để xem Chúa của mày có thể làm gì được tao!” Sau đó, hắn đưa Kiến ra diễu hành ngoài đường phố để bị ‘đấu tố’. Hắn vừa nói vừa đánh Kiến: “Kìa, Chúa của mày ở đâu? Tại sao Ngài lại không đến mà cứu mày? Tại sao Ngài không đến mà thi thố với tao?” Thình lình, có một con chó dữ từ trong ngõ chạy ra, cắn vào chân hắn. Sau đó, vết thương bị nhiễm trùng và dạ dày hắn bị phình trướng lên. Trong vòng hai tháng, hắn chết một cái chết khủng khiếp.
Nhưng vẫn có một cuộc phấn hưng trong các làng lân cận. Chúa đã làm nhiều phép lạ dấu kỳ qua Kiến và hằng ngày số những người được cứu được thêm lên.
Lửa Tin Lành cứ tiếp tục lan ra và lan ra…
Xin đọc: Hoa Huệ Giữa Chông Gai – 05 (a)
https://timhieutinlanh.com/nguoi-cong-dan-thien-quoc-1/