Mười Hai Lẽ Thật Về Điều Răn và Luật Pháp của Đức Chúa Trời

4,924 views

Copyright Notice: All Rights Reserved © 2012 Vietnamese Christian Mission Ministry. Thông Báo Tác Quyền: Mọi tác quyền thuộc về Vietnamese Christian Mission Ministry. Mọi người có thể sao chép, phổ biến dưới mọi hình thức nhưng xin giữ đúng nguyên văn, kể cả thông báo về tác quyền này.

Huỳnh Christian Timothy

Bấm vào đây để download bài viết này

Bấm vào đây để nghe và download audio bài viết này

Ngày nay, có một giáo lý nghịch Thánh Kinh được rao giảng cách rộng khắp trong Hội Thánh của Chúa. Giáo lý đó dạy rằng: "Điều Răn và luật pháp của Đức Chúa Trời được ghi chép trong Thánh Kinh Cựu Ước chỉ áp dụng cho dân Israel sống trong thời Cựu Ước chứ không áp dụng cho Hội Thánh thời Tân Ước; và tín đồ của Đấng Christ không cần phải vâng giữ Mười Điều Răn, nhất là điều răn thứ tư." Chúng ta hãy cùng nhau tra xem lời của Chúa là Thánh Kinh để tìm biết giáo lý đó đã nghịch lại những lẽ thật của Lời Chúa như thế nào.

Có ít nhất là 12 lẽ thật trong Lời Chúa khẳng định giá trị, thẩm quyền của điều răn và luật pháp đối với con dân Chúa trong mọi thời đại, bao gồm cả Hội Thánh thời Tân Ước.

1. Các điều răn của Đức Chúa Trời còn lại cho đến đời đời: "Cứ theo chứng cớ Chúa, tôi đã biết từ lâu rằng Chúa lập các điều răn ấy đến đời đời" (Thi Thiên 119:152).

2. Luật pháp và điều răn của Đức Chúa Trời là thánh, công bình và tốt lành:"Ấy vậy, luật pháp là thánh, điều răn cũng là thánh, công bình và tốt lành" (Rô-ma 7:12).

3. Điều răn và luật pháp của Đức Chúa Trời áp dụng chung cho toàn thể nhân loại. Tội lỗi tức là sự vi phạm điều răn và luật pháp của Đức Chúa Trời. Thế gian bị bại hoại, ô uế vì sự phạm tội của dân cư trên đất: "Còn ai phạm tội tức là trái luật pháp; và sự tội lỗi tức là sự trái luật pháp" (I Giăng 3:4). "Đất bị dân cư làm ô uế, vì họ đã phạm luật pháp, trái điều răn, dứt giao ước đời đời" (Ê-sai 24:5).

4. Tín đồ của Đấng Christ được cứu nhờ ân điển của Ngài thì không thể tiếp tục phạm điều răn và luật pháp của Đức Chúa Trời nữa:"Vậy thì làm sao! Vì chúng ta không thuộc dưới luật pháp, nhưng thuộc dưới ân điển, thì chúng ta sẽ phạm tội hay sao? Chẳng hề như vậy" (Rô-ma 6:15 )!

5. Đức tin của một người nơi Đấng Christ để được Đức Chúa Trời tha tội và làm cho sạch tội không hề hủy bỏ luật pháp của Đức Chúa Trời nhưng giúp cho người ấy có thể hoàn toàn vâng giữ điều răn và luật pháp của Đức Chúa Trời:"Vậy, chúng ta nhơn đức tin mà bỏ luật pháp hay sao? Chẳng hề như vậy! Trái lại, chúng ta làm vững bền luật pháp" (Rô-ma 3:31). "Tôi làm được mọi sự nhờ Đấng ban thêm sức cho tôi" (Phi-líp 4:13) [1].

6. Không một người nào có thẩm quyền hủy bỏ bất kỳ một điều răn nào trong các điều răn của Đức Chúa Trời:"Vậy, ai hủy một điều cực nhỏ nào trong những điều răn nầy, và dạy người ta làm như vậy, thì sẽ bị xưng là cực nhỏ trong nước thiên đàng; còn như ai giữ những điều răn ấy, và dạy người ta nữa, thì sẽ được xưng là lớn trong nước thiên đàng" (Ma-thi-ơ 5:19).

7. Người hết lòng hết sức yêu mến Đức Chúa Trời là người vâng giữ các điều răn của Đức Chúa Trời:"Vì nầy là sự yêu mến Đức Chúa Trời, tức là chúng ta vâng giữ các điều răn Ngài. Các điều răn của Ngài chẳng phải là nặng nề" (I Giăng 5:3). "Vả, sự yêu thương là tại làm theo các điều răn của Đức Chúa Trời. Đó là các điều răn mà các ngươi đã nghe từ lúc ban đầu, đặng làm theo" (II Giăng 1:6) [2].

8. Người biết Đức Chúa Trời là người vâng giữ các điều răn của Đức Chúa Trời theo như Đấng Christ đã vâng giữ.I Giăng 2:3-6:

"3 Nầy tại sao chúng ta biết mình đã biết Ngài, ấy là tại chúng ta giữ các điều răn của Ngài.
 4 Kẻ nào nói: Ta biết Ngài, mà không giữ các điều răn Ngài, là người nói dối, lẽ thật quyết không ở trong người.
 5 Nhưng ai giữ lời phán Ngài, thì lòng kính mến Đức Chúa Trời thật là trọn vẹn trong người ấy. Bởi đó, chúng ta biết mình ở trong Ngài.
 6 Ai nói mình ở trong Ngài, thì cũng phải làm theo như chính Ngài đã làm."

9. Chỉ có Mười Điều Răn của Đức Chúa Trời được cất vào Hòm Giao Ước) chứ không phải tất cả luật pháp. Điều đó nói lên sự tách biệt giữa Mười Điều răn và các luật pháp khác:

"10 Vậy, chúng hãy đóng một cái hòm bằng cây si-tim; bề dài hai thước rưỡi, bề ngang một thước rưỡi, và bề cao cũng một thước rưỡi,
 11 lấy vàng ròng bọc trong, bọc ngoài, và chạy đường viền chung quanh hòm bằng vàng.
12 Ngươi cũng hãy đúc bốn khoen bằng vàng để tại bốn góc hòm: hai cái bên hông nầy, hai cái bên hông kia,
13 cùng làm hai cây đòn bằng cây si-tim, bọc vàng;
14 rồi lòn đòn vào khoen hai bên hông hòm, để dùng đòn khiêng hòm.
15 Đòn sẽ ở trong khoen luôn, không nên rút ra.
16 Ngươi hãy cất vào trong hòm bảng chứng mà Ta sẽ ban cho.
17 Ngươi cũng hãy làm một cái nắp thi ân bằng vàng ròng, bề dài hai thước rưỡi, bề ngang một thước rưỡi.
18 Lại làm hai tượng chê-ru-bin bằng vàng giát mỏng, để hai đầu nắp thi ân,
19 ló ra ngoài, một tượng ở đầu nầy và một tượng ở đầu kia.
20 Hai chê-ru-bin sẽ sè cánh ra, che trên nắp thi ân, đối diện nhau và xây mặt vào nắp thi ân.
21 Ngươi hãy để nắp thi ân trên hòm, rồi để vào trong hòm bảng chứng mà Ta sẽ ban cho."

(Xuất Ê-díp-tô Ký 25:10-21).

"Đoạn, người cũng lấy bảng chứng, để trong hòm, xỏ đòn khiêng vào, để nắp thi ân lên trên hòm"(Xuất Ê-díp-tô Ký 40:20).

"1 Trong lúc đó, Đức Giê-hô-va phán cùng ta rằng: Hãy đục bai bảng đá như hai bảng trước, và hãy lên đến ta trên núi; ngươi cũng phải đóng một cái hòm bằng cây.
2 Ta sẽ viết trên hai bảng nầy những lời đã có trên hai bảng trước mà ngươi đã đập bể, rồi để hai bảng nầy trong hòm.
3 Vậy, ta đóng một cái hòm bằng cây si-tim, đục hai bảng đá, y như hai bảng trước, rồi đi lên trên núi, cầm hai bảng đó trong tay.
4 Ngài viết trên hai bảng nầy lời Ngài đã viết lần trước, tức là mười điều răn mà Đức Giê-hô-va từ giữa lửa tại trên núi, có phán cùng các ngươi, trong ngày nhóm hiệp; rồi Đức Giê-hô-va trao cho ta.
5 Ta trở đi xuống núi, để hai bảng vào hòm mà ta đã đóng, và hai bảng ấy còn ở tại đó, y như Đức Giê-hô-va đã phán dặn ta vậy"
(Phục Truyền Luật lệ Ký 10:1-5).

"2 Vả, một đền tạm đã dựng lên: phần thứ nhứt gọi là nơi thánh, có chơn đèn, bàn và bánh bày ra;
3 rồi đến phía trong màn thứ hai, tức là phần gọi là nơi rất thánh,
4 có lư hương bằng vàng và hòm giao ước, toàn bọc bằng vàng. Trong hòm có một cái bình bằng vàng đựng đầy ma-na, cây gậy trổ hoa của A-rôn, và hai bảng giao ước"
(Hê-bơ-rơ 9:2-4).

Và một ngày kia, Hòm Giao Ước giao ước sẽ hiện ra ở trên trời để mở đầu cho sự phán xét toàn thế gian: "Đền thờ Đức Chúa Trời bèn mở ra ở trên trời, Hòm Giao Ước bày ra trong đền thờ Ngài, rồi có chớp nhoáng, tiếng, sấm sét, động đất và mưa đá lớn" (Khải Huyền 11:19). Hòm Giao Ước được gọi là  là Hòm Giao Ước vì nó chứa hai bảng đá do chính ngón tay của Đức Chúa Trời ghi chép Mười Điều Răn của Ngài là giao ước của Đức Chúa Trời lập ra cho toàn thể nhân loại. Toàn thể nhân loại trong mọi thời đại đều có bổn phận vâng giữ Mười Điều Răn của Đức Chúa Trời cho tới khi "mọi sự được trọn" nghĩa là cho tới khi trời cũ đất cũ qua đi và trời mới đất mới được tạo dựng. Chính vì "Đất bị dân cư làm ô uế, vì họ đã phạm luật pháp, trái điều răn, dứt giao ước đời đời" (Ê-sai 24:5) cho nên Hòm Giao Ước hiện ra trên trời để mở đầu cho sự phán xét toàn thế gian dựa theo sự thế gian "trái điều răn" của Đức Chúa Trời, là Mười Điều Răn được Đức Chúa Trời bảo tồn trong Hòm Giao Ước.

10. Dân ngoại như là nhánh ô-li-ve hoang được tháp vào dân Israel là gốc ô-li-ve thánh để cùng với dân Israel làm thành Hội Thánh của Đức Chúa Trời cho nên tất cả những mệnh lệnh và lời hứa của Đức Chúa Trời đối với dân Israel đều áp dụng cho Hội Thánh. Nói cách khác: Tuyển dân Israel thời Cựu Ước là hình ảnh của Hội Thánh Đức Chúa Trời thời Tân Ước.Rô-ma 11:16-24:

"16 Vả, nếu trái đầu mùa là thánh, thì cả đồng cũng thánh; và nếu rễ là thánh, thì các nhánh cũng thánh.
17 Ví bằng có một hai nhánh bị cắt đi, và ngươi vốn là cây ô-li-ve hoang được tháp vào chỗ các nhánh ấy để có phần về nhựa và rễ của cây ô-li-ve,
18 thì chớ khoe mình hơn các nhánh đó. Nhưng nếu ngươi khoe mình, thì hãy biết rằng ấy chẳng phải là ngươi chịu đựng cái rễ, bèn là cái rễ chịu đựng ngươi.
19 Ngươi sẽ nói rằng: Các nhánh đã bị cắt đi, để ta được tháp vào chỗ nó.
20 Phải lắm; các nhánh đó đã bị cắt bởi cớ chẳng tin, và ngươi nhờ đức tin mà còn; chớ kiêu ngạo, hãy sợ hãi.
21 Vì nếu Đức Chúa Trời chẳng tiếc các nhánh nguyên, thì Ngài cũng chẳng tiếc ngươi nữa.
22 Vậy hãy xem sự nhơn từ và sự nghiêm nhặt của Đức Chúa Trời: sự nghiêm nhặt đối với họ là kẻ đã ngã xuống, còn sự nhơn từ đối với ngươi, miễn là ngươi cầm giữ mình trong sự nhơn từ Ngài: bằng chẳng, ngươi cũng sẽ bị chặt.
23 Về phần họ, nếu không ghì mài trong sự chẳng tin, thì cũng sẽ được tháp; vì Đức Chúa Trời có quyền lại tháp họ vào.
24 Nếu chính ngươi đã bị cắt khỏi cây ô-li-ve hoang thuận tánh mình, mà được tháp vào cây ô-li-ve tốt nghịch tánh, thì huống chi những kẻ ấy là nhánh nguyên sẽ được tháp vào chính cây ô-li-ve mình!"

11. Ngoài Mười Điều Răn của Đức Chúa Trời, Đức Thánh Linh đã thêm hai điều răn cho Hội Thánh. Thứ mười một: Không được ăn đồ cúng hình tượng, huyết, và thịt thú vật chết ngột. Thứ mười hai: Không được phạm tội tà dâm.Theo nguyên ngữ Hê-bơ-rơ của Thánh Kinh thì điều răn thứ bảy chỉ nói đến người đã lập gia đình không được ngoại tình. Theo nguyên ngữ Hy-lạp thì điều răn không được tà dâm bao gồm sự quan hệ tình dục ngoài hôn nhân của những người độc thân và tội đồng tính luyến ái: "Ấy là Đức Thánh Linh và chúng ta đã ưng rằng chẳng gán gánh nặng nào khác cho anh em ngoài những điều cần dùng, tức là anh em phải kiêng ăn của cúng thần tượng, huyết, thú vật chết ngột, và chớ tà dâm; ấy là mọi điều mà anh em khá kiêng giữ lấy vậy. Kính chúc bình an" (Công Vụ Các Sứ Đồ 15:28-29).

12. Mệnh lệnh của Đức Thánh Linh phán cho mọi tín đồ của Đấng Christ trong thời Tân Ước là: Phải vâng giữ điều răn của Đức Chúa Trời, giữ mình thánh sạch cho đến ngày Đấng Christ hiện ra: "Chịu cắt bì chẳng hề gì, không chịu cắt bì cũng chẳng hề gì; sự quan hệ là giữ các điều răn của Đức Chúa Trời"(I Cô-rinh-tô 7:19). "Phải giữ điều răn, ở cho không vết tích và không chỗ trách được, cho đến kỳ sự hiện ra của Đức Chúa Jêsus Christ chúng ta" (I Ti-mô-thê 6:14).

 

Huỳnh Christian Timothy
10.04.2011

 

Ghi Chú:

[1] Dịch sát ý theo nguyên tác Thánh Kinh: "Tôi có thể làm được mọi sự qua Đấng Christ là Đấng ban thêm sức cho tôi."

[2] Trong nguyên tác, Thánh Kinh dùng hình thức số nhiều: "Các điều răn" trong hai câu này.

[3] Trong nguyên ngữ Hê-bơ-rơ của Thánh Kinh không dùng từ ngữ "mười điều răn" mà dùng từ ngữ "mười lời." Sáng Thế Ký 1 ghi lại mười lời phán của Chúa trong công cuộc sáng thế, ban phước và giao việc cho loài người. Xuất Ê-díp-tô Ký 34:28, Phục Truyền Luật lệ Ký 4:13; 10:4, ba lần ghi lại "mười lời" phán của Chúa (mà bản Thánh Kinh Việt Ngữ dịch là "mười điều răn) làm nền tảng đạo đức cho con dân của Ngài.