Nhận Định về Lời Chứng “Hãy Chuẩn Bị Gặp Chúa của Bạn” của Angelica Elizabeth Zambrano Mora

6,837 views

Huỳnh Christian Timothy

Dẫn Nhập

Thánh Kinh xác định: “Đức Chúa Trời phán: Trong những ngày sau rốt, Ta sẽ đổ Thần Ta khắp trên mọi xác thịt; con trai và con gái các ngươi đều sẽ nói lời tiên tri, bọn trai trẻ sẽ thấy điềm lạ, và các người già cả sẽ có chiêm bao. Phải, trong những ngày đó, Ta sẽ đổ Thần Ta khắp trên các đầy tớ trai và gái Ta, chúng nó đều nói lời tiên tri” (Công Vụ Các Sứ Đồ 2:17, 18; Giô-ên 2:28, 29).

“Những ngày sau rốt” khởi đầu từ khi Đức Thánh Linh được ban cho Hội Thánh, rồi sẽ kết thúc khi Đấng Christ tái lâm để phán xét thế gian và thiết lập vương quốc ngàn năm của Ngài trên đất. Vì thế, sự kiện con dân Chúa sẽ được thần cảm để thấy điềm lạ hoặc có chiêm bao để nói lời tiên tri là điều đương nhiên. Tuy nhiên, Thánh Kinh cũng cho biết có thần cảm giả mạo (II Tê-sa-lô-ni-ca 2:2) và Sa-tan giả làm thiên sứ sáng láng (II Cô-rinh-tô 11:14). Chính Đức Chúa Jesus Christ đã cảnh giác con dân của Ngài: “Vì nhiều christ giả và tiên tri giả sẽ dấy lên, làm những dấu lớn, phép lạ, nếu có thể được thì họ cũng đến dỗ dành chính những người được chọn. Nầy, Ta đã bảo trước cho các ngươi.” (Ma-thi-ơ 24:24, 25).

Thánh Kinh đã dạy cho chúng ta biết là chớ tin cậy mọi thần, nhưng phải thử các thần: “Hỡi kẻ rất yêu dấu, chớ tin cậy mọi thần, nhưng hãy thử cho biết các thần có phải đến bởi Đức Chúa Trời chăng; vì có nhiều tiên tri giả đã hiện ra trong thiên hạ” (I Giăng 4:1). Phương cách để thử các thần là cầu xin Đức Thánh Linh dùng chính Thánh Kinh để chỉ ra cho chúng ta những gì không thuộc về lẽ thật.

Sa-tan và các tà linh của nó có thể hiện ra như một thiên sứ sáng láng của Đức Chúa Trời, thậm chí, hiện ra giả làm Đấng Christ và mạo danh Chúa để “phán truyền, ban mạc khải,” và làm ra đủ các thứ dấu kỳ, phép lạ, đến nổi có thể gọi lửa từ trời rơi xuống đất (Khải Huyền 13:13). Vì thế, nếu chúng ta chỉ dựa vào hình thể sáng láng, dựa vào các dấu kỳ, phép lạ, và những lời nói mang danh Chúa, thì chúng ta sẽ bị gạt một cách dễ dàng.

Nguyên tắc duy nhất để xác định một người, một thần, một sự việc có phải đến từ Chúa hay không, là đối chiếu chúng với Thánh Kinh. Chỉ cần có một chi tiết không đúng với Thánh Kinh, thì toàn bộ là sản phẩm giả mạo của loài người hoặc Sa-tan.

Trong bài này, người viết sẽ dùng Lời Chúa để chỉ ra những chi tiết không đúng với Thánh Kinh trong lời làm chứng: “Hãy Chuẩn Bị Gặp Chúa của Bạn” của Angelica Elizabeth Zambrano Mora.

Angelica Elizabeth Zambrano Mora là một thiếu nữ người Ecuador, Nam Mỹ, cô đã làm chứng rằng: Vào ngày 7 tháng 11 năm 2009, Chúa đã làm cho cô chết trong 23 tiếng đồng hồ. Sau đó, Chúa đã dẫn cô vào hỏa ngục và thiên đàng để cô xem thấy những điều đang xảy ra tại hai nơi đó. Rồi, Chúa cho cô sống lại và sai cô thuật những điều đã thấy cho thế gian. Lời làm chứng của cô: “Hãy Chuẩn Bị Gặp Chúa của Bạn,” đã được dịch ra nhiều thứ tiếng, phát hành đi khắp nơi trên thế giới, và cho đến năm 2011 thì cô trở thành nhà truyền giáo nổi tiếng.

Bản dịch Việt ngữ có thể download tại đây: http://www.divinerevelations.info/Documents/Prepare_to_meet_your_God/Vietnamese_Prepare_to_meet_your_God.pdf

Bản dịch Anh ngữ có thể download tại đây: http://www.divinerevelations.info/Documents/Prepare_to_meet_your_God/English_Prepare_to_meet_your_God.pdf

Những câu trích dẫn Anh ngữ dưới đây được trích dẫn từ trang mạng nêu trên và được người viết bài này dịch sang tiếng Việt.

Ba Mươi Điều Không Đúng với Thánh Kinh Trong Lời Chứng của Angelica

Điều 1:Những việc “lớn và khó” được đề cập trong Giê-rê-mi 33:3 không phải là thiên đàng và hỏa ngục.

Angelica:

Tôi đã xin một dấu hiệu rằng, Ngài ở với tôi, và Chúa đã cho tôi Giê-rê-mi 33:3: “Hãy kêu cầu Ta, Ta sẽ trả lời cho; Ta sẽ tỏ cho ngươi những việc lớn và khó, là những việc ngươi chưa từng biết.” Tôi nói: “Lạy Chúa, có phải Ngài vừa phán với con?” Vì tôi nghe rõ tiếng nói của Ngài và có sự nhìn thấy những chữ đã được viết trong Giê-rê-mi 33:3.

Tôi hỏi: “Lạy Chúa, có phải đó là cho con?” Tôi giữ điều ấy cho chính mình, trong khi mọi người khác đang làm chứng những gì Chúa đã cho họ và những gì họ đã thấy. Tôi giữ bí mật điều đó và nghĩ rằng, những chữ “Kêu cầu Ta,” có nghĩa là cầu nguyện, nhưng “những việc lớn và khó,” có nghĩa gì? Tôi nghĩ: “Điều này chỉ có nghĩa là thiên đàng và hỏa ngục.” Vậy nên, tôi nói: “Lạy Chúa, con chỉ muốn Ngài cho con thấy thiên đàng chứ không là hỏa ngục, bởi vì, con từng nghe rằng, đó là nơi khủng khiếp!” Nhưng rồi tôi hết lòng cầu nguyện: “Lạy Chúa, nếu ý Ngài là cho con thấy những gì Ngài phải cho thấy, thì xin hãy làm như vậy, nhưng xin thay đổi con trước. Con muốn Ngài làm ra một sự khác biệt trong con; con muốn được trở nên khác biệt.”

I asked for a sign that He was with me, and the Lord gave me Jeremiah 33:3, “Call to Me and I will answer you and tell you great and unsearchable things you do not know.” I said, “Lord, did You just talk to me?” Because I heard His audible voice and had a vision of the words written in Jeremiah 33:3.

I said, “Lord, is that for me?” I kept it to myself, while everyone else was testifying what the Lord had given them and what they had seen. But I kept it secret and would only meditate on the words: “Call unto Me” means to pray, but what did“great and mighty things” mean? I thought, “This can only mean heaven and hell.” So I said, “Lord, I only want You to show me heaven, but not hell, because I’ve heard that it is a horrible place.” But I then prayed with all my heart, “Lord if it is Your will to show me what You must, then do so, but change me first. I want You to make a difference in me; I want to be different.”

Nếu “những việc lớn và khó” trong Giê-rê-mi 33:3 là thiên đàng và hỏa ngục, thì ý nghĩa của câu Thánh Kinh đó sẽ là: Hễ Giê-rê-mi kêu cầu Chúa, thì Ngài sẽ cho ông thấy thiên đàng và hỏa ngục! Nên nhớ, đây là lời Chúa phán trực tiếp đến Tiên Tri Giê-rê-mi, lúc ông đang bị giam trong hành lang của cung điện Vua Sê-đê-kia, nước Giu Đa (Giê-rê-mi 32:2; 33:1), trong khi quân lính Ba-by-lôn đang bao vây thành Giê-ru-sa-lem, để phá thành và bắt dân Giu-đa đi lưu đày 70 năm. Sự cứng lòng của dân Giu-đa dẫn đến sự sửa phạt nặng nề của Thiên Chúa trên vương quốc Giu-đa, đang xảy ra trước mắt Giê-rê-mi; nhưng Chúa bảo ông hãy kêu cầu Chúa, thì Chúa sẽ tỏ cho ông những việc lớn và khó, mà Ngài sẽ làm cho dân của Ngài.

Nghĩa đen của Giê-rê-mi 33:3, hiểu theo văn cảnh của toàn đoạn 33 và toàn sách Giê-rê-mi, có nghĩa là: Nếu Giê-rê-mi kêu cầu Chúa thì Chúa sẽ tỏ cho ông về sự Thiên Chúa sẽ tha thứ, giải cứu, và phục hồi hai vương quốc I-sơ-ra-ên và Giu-đa: “Nầy, Ta sẽ ban sức mạnh cho nó, và chữa lành; Ta sẽ chữa lành chúng nó, sẽ tỏ cho chúng nó thấy dư dật sự bình an và lẽ thật. Ta sẽ khiến những phu tù Giu-đa và phu tù I-sơ-ra-ên trở về; gây dựng lại chúng nó như hồi trước. Ta sẽ làm cho sạch mọi sự gian ác chúng nó đã phạm nghịch cùng Ta; Ta sẽ tha mọi sự gian ác chúng nó đã phạm nghịch cùng Ta, và đã phạm pháp nghịch cùng Ta” (Giê-rê-mi 33:6-8).

Nghĩa ứng dụng thuộc linh của Giê-rê-mi 33:3 là: Hễ ai kêu cầu Chúa thì Ngài sẽ đáp lời họ, tỏ cho họ năng lực và sự mầu nhiệm của Tin Lành về sự Thiên Chúa sẽ tha thứ, giải cứu, và phục hồi những ai thật lòng ăn năn, từ bỏ tội, và tin nhận Đấng Christ.

Điều 2: Đức Chúa Trời không hề giải thích Thánh Kinh theo ý loài người.

Angelica:

Tôi đã cầu nguyện suốt cả tháng 8 và rồi trong tháng 11, một tôi tớ của Chúa đã đến nhà chúng tôi và nói: “Nguyện Chúa ban phước cho cô.” Tôi đáp lời: “A-men!” Ông bèn nói: “Tôi đến đây để mang cho cô một sứ điệp từ Đức Chúa Trời… cô phải chuẩn bị chính mình, vì Chúa sẽ tỏ cho cô những việc lớn và khó mà cô chưa từng biết. Ngài sẽ tỏ cho cô thiên đàng và hỏa ngục, bởi vì cô đã cầu xin theo Giê-rê-mi 33:3.” Tôi hỏi: “Vâng, làm sao ông biết được? Tôi chưa hề nói điều đó với ai cả.” Ông ta trả lời: “Chính Đức Chúa Trời mà cô hầu việc và tôn vinh, chính Đức Chúa Trời đó mà tôi cũng tôn vinh đã nói cho tôi mọi sự.”

I prayed during all of August and then in November, a servant of the Lord came to our house and said, “May the Lord bless you.” I replied, “Amen.” He then said, “I am here to bring you a message from God…you must prepare yourself, because the Lord will show you great and mighty things which you do not know. He is going to show you Heaven and Hell because you have been asking, from Jeremiah 33:3.” I asked, “Yes, how did you know? I haven’t told that to anyone.” He responded, “The same God that you serve and praise, that very same God I also praise told me everything.”

Mọi lời tiên tri trong Thánh Kinh đều không thể giải thích theo ý riêng: “Trước hết, phải biết rõ rằng chẳng có lời tiên tri nào trong Thánh Kinh lấy ý riêng giải nghĩa được. Vì chẳng hề có lời tiên tri nào từng bởi ý một người nào, nhưng những người thánh của Thiên Chúa đã cảm động bởi Thánh Linh mà nói ra” (II Phi-e-rơ 1:20, 21). Thế nhưng, trong lời làm chứng trên đây của Angelica, chúng ta thấy cô đã tự ý giải thích: “những việc lớn và khó” là “thiên đàng và hỏa ngục.” Tiếp theo, Angelica nói một “tôi tớ Chúa” đã đến nhà của cô và nói với cô rằng, Chúa sẽ cho cô thấy thiên đàng và hỏa ngục như lời cô đã cầu nguyện theo Giê-rê-mi 33:3. Và như vậy, theo cô, điều đó có nghĩa là sự hiểu của cô về “những việc lớn và khó” trong Giê-rê-mi 33:3 đã được một “tôi tớ Chúa” ấn chứng là đến từ “Chúa.”

Một khi Lời Chúa bị giải thích sai trật thì dù cho có bao nhiêu người “xác chứng” cũng không thể biến những sai trật đó thành lẽ thật. Chính sự kiện một người rao giảng Lời Chúa đúng với Thánh Kinh tỏ cho biết người ấy là tôi tớ Chúa; còn một người dù có địa vị và bằng cấp cao trọng trong các giáo hội, nhưng giảng sai Lời Chúa, thì không thể là tôi tớ Chúa mà chỉ là giáo sư giả và tiên tri giả, mạo làm kẻ giúp việc công bình (II Cô-rinh-tô1:15). Họ cũng có thể nhân danh Chúa để nói tiên tri, trừ quỷ, và làm nhiều phép lạ, nhưng Chúa không hề biết họ (Ma-thi-ơ 7:21, 22). Họ và những kẻ nghe theo họ sẽ bị hư mất đời đời.

“Đức Chúa Trời” mà một người hầu việc và tôn vinh không hẳn là Đức Chúa Trời của Thánh Kinh. Phải chăng Sa-tan đã ranh mãnh chơi chữ với những người bị rơi vào trong sự dối gạt của nó?

Điều 3: Thánh Kinh không hề nói các thiên sứ của Chúa được sai đến tiếp xúc với loài người có cánh.

Angelica:

Họ cao và đẹp với những bộ cánh xinh đẹp. Họ to lớn và chiếu sáng, dường như trong suốt và rực rỡ như vàng. Họ mang những giầy bằng thủy tinh và mặc những trang phục thánh. “Tại sao các ngươi ở đây?” Họ mĩm cười và đáp: “Chúng tôi ở đây vì chúng tôi có nhiệm vụ phải thi hành… Chúng tôi ở đây vì cô phải viếng thăm thiên đàng và hỏa ngục; và chúng tôi sẽ chẳng rời khỏi cho đến khi mọi việc này được hoàn tất.” Tôi đáp lời: “Tốt lắm, nhưng tôi chỉ muốn viếng thiên đàng mà không viếng hỏa ngục.” Họ mĩm cười và cứ ở đó, nhưng họ không nói gì thêm. Sau khi chúng tôi chấm dứt buổi cầu nguyện, tôi vẫn có thể nhìn thấy họ ở đó.

They were tall and beautiful; with beautiful wings. They were large and shining, and seemed transparent, brilliant as gold. They wore crystal sandals and had on holy garments. “Why are you here?” They smiled and said, “We are here because we have a task to carry out…We are here because you must visit Heaven and Hell and we will not leave until all of this comes to pass.” I responded, “very well, but I only want to visit heaven, not hell.” They smiled, and stayed there, but did not say anything more. After we finished prayer, I could still see them there.

Thánh Kinh chỉ nói đến các Chê-ru-bin và Sê-ra-phin là có cánh. Họ là những sinh vật kề bên ngai Chúa. Các Chê-ru-bin và Sê-ra-phin không phải là hàng thiên sứ được Chúa sai đến, tiếp xúc với loài người. Chê-ru-bin ở phía dưới ngai còn Sê-ra-phin thì bao phủ ở phía trên ngai của Thiên Chúa. Thánh Kinh không dùng từ ngữ “thiên sứ” để gọi các sinh vật này mà chỉ dùng từ ngữ “các sinh vật.”

Ngoài ra, Xa-cha-ri 5:9 nói đến khải tượng về hai tà linh có hình dáng người đàn bà và có cánh như cánh cò (chim cò thuộc loài vật ô uế), được Thiên Chúa dùng làm công cụ để sửa phạt vương quốc Giu-đa. Hai người đàn bà có cánh này tiêu biểu cho tà linh cầm quyền trên dân Canh-đê và dân Ba-by-lôn, là hai giống dân thuộc đế quốc Ba-by-lôn, được Chúa dùng để sửa phạt dân Giu-đa.

Khái niệm cho rằng các thiên sứ có cánh và các thánh đồ trong Thánh Kinh có vòng hào quang bao chung quanh đầu ra từ những tranh tượng của các Giáo Hội Công Giáo và Chính Thống.

Sự hiện thấy của Angelica về hai “thiên sứ” có cánh đến xác chứng với cô rằng, “những việc lớn và khó” là việc Chúa sẽ cho cô viếng thăm “thiên đàng và hỏa ngục,” một lần nữa, cho chúng ta thấy Sa-tan chuẩn bị thật kỷ từng chi tiết, để khiến người ta tin vào sự dối trá của nó.

Điều 4: Thánh Kinh không hề ghi lại sự kiện một người có thể nhìn thấy Đức Thánh Linh như cách nhìn thấy thiên sứ.

Angelica:

Tôi cũng bắt đầu nhìn thấy Đức Thánh Linh. Ngài là bạn tốt nhất của tôi. Ngài là thánh, Ngài biết hết mọi sự, Ngài ở khắp mọi nơi. Tôi có thể nhìn thấy Ngài, vừa trong suốt vừa rực rỡ, với một dung mạo chói sáng. Tôi có thể nhìn thấy nụ cười của Ngài và cái nhìn yêu thương của Ngài. Tôi khó mà diễn tả Ngài, vì Ngài xinh đẹp hơn các thiên sứ nhiều.

I also started to see the Holy Spirit; He is my best friend; He is Holy, He is omniscient; He is omnipresent! I could see Him, transparent and brilliant at the same time; with a brilliant countenance, I could see His smile and His loving gaze! I can hardly describe Him, because He is more beautiful than angels.

Loài người có thể nhìn thấy các thiên sứ của Chúa hoặc nhìn thấy các tà linh lấy hình loài người hiện ra, và chỉ có thể nhìn thấy Thiên Chúa trong hình thể của loài người qua Đức Chúa Jesus, vì Đức Chúa Jesus đã có một thân thể xác thịt như loài người. Sau khi Đức Chúa Jesus phục sinh từ cõi chết, loài người cũng có thể nhìn thấy Ngài và sờ chạm Ngài. Trong khải tượng được ghi lại trong sách Khải Huyền, Sứ Đồ Giăng cũng nhìn thấy Đức Chúa Jesus trong hình thể của loài người. Tuy nhiên, Thánh Kinh không hề ghi lại sự kiện một người có thể nhìn thấy Đức Chúa Cha hoặc Đức Thánh Linh trong hình thể của loài người. Vì thế, lời chứng trên đây của Angelica không có một hậu thuẩn nào từ Thánh Kinh. Nếu chúng ta tin vào tất cả những gì  không được ấn chứng của Thánh Kinh, thì chúng ta sẽ không còn tiêu chẩn để phân biệt thật giả.

Điều 5: Công Vụ của Đức Thánh Linh trên đất, giữa Hội Thánh, trong lòng người tin Chúa không phải để chơi với tín đồ và hiện ra cho tín đồ nhìn thấy hoặc làm theo lời sai khiến của tín đồ.

Angelica:

Tôi có thể nhìn thấy, chơi với, và ngay cả trò chuyện với Đức Thánh Linh. Nhưng các thiên sứ thì không trò chuyện với tôi, mà họ chỉ tôn vinh Chúa. Tôi có thể nói: “Đức Thánh Linh, xin hãy đến với con và làm điều này hay làm điều kia,” thì Ngài liền ở đó. Tôi có thể nhìn thấy Ngài, cảm nhận Ngài. Tôi nhìn thấy Ngài khi Ngài đứng dậy, đến nổi tôi dọn một chỗ cho Ngài ngồi. Mặc dù nhiều người không thể nhìn thấy Ngài, Ngài vẫn ở đây.

I could see; play with, and even talk to the Holy Spirit. But the angels would not talk to me, but they would praise the Lord. I would say, “Holy Spirit come along with me to do this or that” and He would be there. I could feel and see Him. I saw Him when He would rise to His feet, and would even prepare a seat for Him. Although many can’t see Him, He is here!

Lời chứng trên đây của Angelica cũng tương tự như lời chứng vừa nêu trên trong điều 4, hoàn toàn không có sự hậu thuẩn của Thánh Kinh. Chúng ta có thể nói: Angelica đang thấy tà linh và chơi với tà linh.

Điều 6: Thánh Kinh không hề ghi lại sự kiện: khi một người nhìn thấy khải tượng từ Chúa thì bị đau đớn trong thân thể.

Angelica:

Trong khi cầu nguyện, tôi cảm thấy hụt hơi, tôi không thể thở được. Tôi cảm thấy đau đớn trong bụng và trong tim. Tôi cảm thấy máu của tôi sắp ngưng tuần hoàn và một cơn đau đớn khủng khiếp lan khắp thân thể tôi. Tôi chỉ có thể nói: “Lạy Chúa, xin thêm sức cho con, xin thêm sức cho con,” vì tôi cảm thấy tôi không còn chịu nổi nữa. Tôi không còn sức lực, nó đã lìa khỏi tôi. Khi tôi nhìn lên trời, trong cõi thuộc linh, không phải với đôi mắt vật lý của tôi, tôi đã nhìn thấy thiên đàng mở ra. Tôi nhìn thấy các thiên sứ, không phải hai hay mười, nhưng hàng triệu vị đang nhóm họp với nhau. Giữa hàng triệu thiên sứ, tôi nhìn thấy một ánh sáng, sáng chói gấp 10,000 lần mặt trời. Và tôi nói: “Lạy Chúa, đó chính là Ngài, Đấng đang đến!”

During prayer, I felt shortness of breath; I couldn’t breathe. I felt a pain in my abdomen and in my heart. I felt my blood going dormant, and tremendous pain all over my body. All I could say was, “Lord, give me strength, give me strength!” because I felt I couldn’t go on. I had no strength, it was leaving me! When I looked up to heaven, in the spiritual realm, not with my physical eyes, I saw heaven opening up. I saw angels, not two nor ten, but millions of them gathering together. In the midst of the millions of angels, I saw a Light, 10,000 times brighter than the sun. And I said, “Lord that is You who is coming!”

Điều 7: Thánh Kinh không hề ghi lại rằng Đức Chúa Jesus tự xưng danh Ngài là Giê-hô-va.

Angelica:

Vào giây phút đó, tôi nghe tiếng của Chúa, một giọng nói yêu thương như sấm vang: “Đừng sợ! Hỡi con gái! Vì Ta là Giê-hô-va, Đức Chúa Trời của con. Ta phải đến đây để tỏ cho con điều mà Ta đã hứa với con. Hãy chổi dậy, vì Ta là Giê-hô-va, Đấng nắm giữ con bởi tay phải con và phán với con rằng, đừng sợ, vì Ta sẽ giúp con!”

At that moment I hear the Lord’s voice, a beautiful voice with thunder and love, “Fear not, Daughter, for I am Jehovah, Your God, and I have come here to show you what I have promised you. Arise, for I am Jehovah, who holds you by your right hand and tells you, Fear not, I will help you.”

Mặc dù chúng ta biết Giê-hô-va là tên riêng của Thiên Chúa Ba Ngôi, nghĩa là: Đức Chúa Cha là Giê-hô-va, Đức Chúa Con là Giê-hô-va, và Đức Thánh Linh là Giê-hô va. Ê-sai 6:1-5 ghi lại sự kiện Tiên Tri Ê-sai nhìn thấy Đức Giê-hô-va ngồi trên ngôi cao sang, và Giăng 12:41 cho biết là Ê-sai đã thấy Đức Chúa Con. Thế nhưng Thánh Kinh không hề ghi lại rằng, Đức Chúa Jesus tự xưng danh Giê-hô-va khi phán với loài người. Ngay trong Khải Huyền là cuốn sách ghi lại những mạc khải cuối cùng của Thiên Chúa ban cho loài người, Đức Chúa Jesus cũng chỉ xưng: “Ta là Jesus” (Khải Huyền 22:16)!

Vì thế, lời chứng trên đây của Angelica cũng không có sự hậu thuẩn của Thánh Kinh. Càng nhiều chi tiết “ly kỳ,” khác thường nhưng không có trong Thánh Kinh bao nhiêu, chỉ càng giúp cho con dân chân thật của Chúa, là “những người đã được chọn,” càng dễ nhìn ra sự dối trá của Sa-tan.

Điều 8: Khải Huyền 1:14 ghi rằng đầu và tóc của Chúa trắng như lông chiên, không phải tóc Ngài là vàng chói sáng.

Angelica:

Khi tôi bắt đầu bước đi thì các thiên sứ mở ra một lối đi. Có một ánh sáng mạnh mẽ chiếu ra và tôi nhìn vào đó, tôi cảm thấy bình an. Khi tôi nhìn, tôi thấy một người đàn ông xinh đẹp, cao, thanh lịch, vạm vỡ; ánh sáng phát ra từ Ngài. Có quá nhiều ánh sáng nên tôi không thấy mặt Ngài, nhưng tôi có thể thấy mái tóc xinh đẹp bằng vàng chói sáng của Ngài và một trang phục trắng với thắt lưng vàng ngang ngực; trên đó có hàng chữ: Vua muôn vua và Chúa muôn chúa!

As I started walking, the angels began to open a path. There was a strong light shining, and as I gazed at it, I felt peace. As I looked, I saw a beautiful, tall, elegant, muscular man. Light was projecting from Him. There was too much light for me to see His face! But I could see His beautiful hair of brilliant gold and a white garment with a wide golden girdle that crossed His chest. It read, “KING OF KINGS AND LORD OF LORDS.”

Điều 9: Đức Chúa Jesus khẳng định với Đức Chúa Cha, Ngài đã ban sự vinh quang của Ngài cho những ai thuộc về Ngài: “Con đã ban cho họ sự vinh quang mà Ngài đã ban cho con, để họ trở nên một cũng như chúng ta là một” (Giăng 17:22 – Bản Dịch Ngôi Lời).

Vì thế, hễ những ai thuộc về Ngài thì có vinh quang của Ngài và nhận biết Ngài là thật, nhận biết vinh quang của Ngài là thật. Vậy, tại sao gần hai ngàn năm sau, Chúa lại phải tỏ cho Angelica thấy vinh quang của Ngài và nhờ cô bảo với con dân Ngài, rằng: Ngài là thật và vinh quang của Ngài là thật? Nếu một người không tin Ngài là thật thì làm sao trở thành con dân của Ngài? Nếu một người đã là con dân Ngài mà không nhận biết sự vinh quang của Ngài, (tức là: tình yêu, sự công chính, và sự thánh khiết của Ngài), là thật thì làm sao có thể chiếu sáng vinh quang của Ngài qua thân thể và đời sống của người đó (I Cô-rinh-tô 6:20)?

Angelica:

Và, Ta cũng sẽ tỏ cho con sự vinh quang của Ta, để con nói với dân Ta hãy chuẩn bị, vì sự vinh quang của Ta là thật và Ta là thật!”

And also, My glory will I show you, for you to tell My people to be prepared, for My glory is real and I am real.”

Điều 10: Thánh Kinh không hề diễn tả hỏa ngục với những màn tra tấn, hành hạ khủng khiếp bởi quỷ dữ để người ta sợ.

Angelica:

Ngài phán: “Hỡi con gái, Ta sẽ ở với con. Ta sẽ chẳng lìa con trong nơi đó và Ta sẽ tỏ cho con nơi đó, bởi vì, có nhiều người biết hỏa ngục có thật nhưng họ không sợ. Họ tin nó là một trò chơi, rằng hỏa ngục là chuyện đùa, và nhiều người không biết về nó. Đó là lý do Ta sẽ tỏ cho con nơi ấy, bởi vì, có nhiều người hư mất hơn là vào trong sự vinh quang của Ta.”

He said, “Daughter, I will be with you. I will not leave you in that place and I am going to show you that place because there are many who know that hell exists, but they have no fear. They believe it’s a game, that hell is a joke, and many don’t know about it. That is why I am going to show you that place, because there are more that perish than those that are entering My glory.”

Thánh Kinh đã nói đến sự có thật của hỏa ngục và số phận hư mất đời đời của những ai không tin nhận sự cứu rỗi của Đức Chúa Trời trong Đức Chúa Jesus Christ. Chỉ Tin Lành của Đức Chúa Trời mới có năng quyền để cứu tất cả những ai tin nhận Tin Lành ấy (Rô-ma 1:16), chứ không phải sự thật khủng khiếp về hỏa ngục mới khiến người ta được cứu rỗi. Rao giảng về sự khủng khiếp của hỏa ngục với mục đích muốn cho người ta tin Chúa tức là rao giảng một thứ “tin lành khác,” không có trong Thánh Kinh (II Cô-rinh-tô 11:4; Ga-la-ti 1:6, 7).

Điều 11: Thánh Kinh không hề dạy mỗi con quỷ ở trong hỏa ngục được ban cho tên của một người và một phi tiêu, để chúng lên mặt đất dùng phi tiêu hủy diệt người đó và mang người đó vào hỏa ngục.

Điều 12: Thánh Kinh chép: “Nhưng mỗi người bị cám dỗ khi mắc tư dục xui giục mình. Đoạn, lòng tư dục cưu mang, sanh ra tội ác; tội ác đã trọn, sanh ra sự chết” (Gia-cơ 1:14, 15). Nếu quả thật, mỗi tà linh được ban cho quyền hủy diệt nhân loại để đem họ vào hỏa ngục, thì nhân loại không có trách nhiệm về sự hư mất của họ.

Điều 13: Thánh Kinh dạy rằng: Sa-tan là thần của đời này (II Cô-rinh-tô 4:4) và các thần dữ của nó đang hành động trong chốn không trung (Ê-phê-sô 2:2; 6:12), còn các thiên sứ phạm tội khác bị xiềng lại trong vực sâu để chờ ngày bị phán xét (II Phi-e-rơ 2:4). Thánh Kinh không dạy ma quỷ từ hỏa ngục có thể tiến lên mặt đất để tấn công loài người, ngoại trừ một lần duy nhất trong thời đại nạn, chúng sẽ được thả ra từ vực sâu không đáy, lên trên mặt đất để hành hại những người theo Anti-Christ (Khải Huyền 9).

Điều 14: Thánh Kinh không hề dạy ma quỷ đem linh hồn của tội nhân vào hỏa ngục. Chính Chúa nhốt các thiên sứ phạm tội vào vực sâu, chính Chúa sẽ ném Anti-Christ và tiên tri giả của nó vào hỏa ngục, và chính Chúa cũng sẽ ném Sa-tan vào hỏa ngục. Sau khi Sa-tan bị ném vào hỏa ngục thì Chúa mới xét xử những người không có sự cứu rỗi, rồi mới ném họ xuống hỏa ngục (Khải Huyền 2011-15). Thánh Kinh cho biết các thiên sứ làm nhiệm vụ thu thập những kẻ ác ra khỏi vương quốc của Đức Chúa Trời (Ma-thi-ơ 13:39, 41, 49).

Điều 15: Thánh Kinh không hề dạy Chúa khóc vì những linh hồn bị hư mất trong hỏa ngục. Nếu Chúa khóc vì những linh hồn bị hư mất trong hỏa ngục thì Ngài sẽ khóc đến đời đời.

Angelica:

Tôi nhìn thấy những con quỷ kinh khiếp, đủ loại, cả lớn lẫn nhỏ. Chúng nó chạy thật nhanh và cầm vật chi đó trong tay chúng. “Lạy Chúa, tại sao chúng chạy như vậy và chúng cầm vật gì trong tay?” Ngài đáp: “Hỡi con gái, chúng chạy vì chúng biết thời giờ của chúng sắp hết, vì không còn bao nhiêu thời gian để hủy diệt nhân loại, đặc biệt là dân Ta. Những vật chúng cầm trong tay chúng là những phi tiêu dùng để hủy diệt nhân loại, bởi vì mỗi con quỷ được ban cho một tên người và tùy theo tên người đã ban cho nó, nó có một phi tiêu để hủy diệt người đó và đem người đến nơi này. Mục đích của nó là hủy diệt người đó và đem người vào hỏa ngục.” Và tôi có thể thấy những con quỷ chạy ra, hướng về địa cầu; và Ngài phán với tôi: “Chúng nó đến địa cầu để mang và ném nhân loại vào trong chốn này!” Trong khi phán lời này, Ngài đã khóc. Ngài khóc rất nhiều. Ngài khóc suốt buổi và tôi cũng khóc nữa.

I saw horrible demons, of all types, both large and small. They were running so fast, and carrying something in their hands. “Lord, why are they running like that and what are they carrying?” He answered, “Daughter, they run that way because they know their time is running out, because time is so short to destroy humanity and especially My people. That which they carry in their hands are darts to destroy humanity, because each demon is given a name and according to the name that is given to them, they have a dart to destroy that person and bring them to this place; their goal is to destroy that person and bring them to hell.” And I would see the demons running and exiting toward Earth and He told me. “They are going to Earth to bring and throw humanity into this place.” As He said this He would weep, He would weep so very much. He was weeping all the time and I would cry too.

Điều 16: Số 666 của con thú trong Khải Huyền 13 là dấu hiệu mà một người thờ lạy nó, tình nguyện chịu mang lấy trên trán hoặc trên tay phải. Việc đó sẽ xảy ra trong thời đại nạn, sau khi Chúa đã đem Hội Thánh ra khỏi thế gian. Hiện nay, không ai có thể nhận con dấu của con thú vì con thú chưa xuất hiện.

Điều số 17: Thánh Kinh dạy rất rõ, là sau khi Sa-tan bị ném vào hỏa ngục, những người không tin nhận Chúa sẽ bị phán xét tùy theo mỗi việc họ đã làm, rồi mới bị ném vào hỏa ngục (Khải Huyền 20:11-15). Vậy, tại sao hiện nay người thanh niên trong lời chứng của Angelica đã chịu hình phạt ở trong hỏa ngục? Trớ trêu là ngay trong lời nói của tà linh mà Angelica gọi là “Chúa Jesus,” cũng khẳng định rõ sự phán xét chỉ xảy ra trong ngày cuối cùng, không phải trong hiện tại.

Angelica:

Chúa phán với tôi: “Con đã sẵn sàng để xem điều mà Ta sẽ tỏ ra cho con chăng?” Tôi đáp: “Vâng, thưa Chúa!” Ngài đem tôi đến một phòng giam mà tôi có thể nhìn thấy một thanh niên đang bị khổ giữa lửa. Tôi để ý thấy phòng giam được đánh số, mặc dầu tôi không thể hiểu những con số, hình như chúng được viết ngược. Có một tấm bảng lớn trong phòng giam đó và người thanh niên có số “666” trên trán anh ta. Anh ta cũng có một tấm bảng lớn bằng kim loại được khảm vào da của anh ta. Những con sâu đang ăn anh ta nhưng không thể làm hư tấm bảng; lửa cũng không cháy nó. Anh ta kêu la: “Lạy Chúa, xin thương xót con. Xin đem con ra khỏi chốn này. Xin tha thứ con, Chúa ơi!” Nhưng Đức Chúa Jesus đáp: “Trể rồi! đã quá trể! Ta đã ban cho ngươi nhiều cơ hội mà ngươi đã không ăn năn.” Tôi hỏi Đức Chúa Jesus: “Lạy Chúa, tại sao anh ta ở đây?” Rồi, tôi nhận ra anh ta. Trên đất, người thanh niên này biết Lời Chúa, nhưng bỗng nhiên anh ta rời xa Chúa, chọn rượu, ma túy, và đi vào con đường sai trái. Anh ta đã không muốn đi theo con đường của Chúa. Đức Chúa Jesus đã cảnh cáo anh nhiều lần về việc điều gì sẽ xảy đến cho anh. Đức Chúa Jesus phán: “Hỡi con gái, anh ta ở trong chỗ này bởi vì bất kỳ ai chối bỏ Lời Ta thì đã có một thẩm phán. Lời mà Ta đã phán sẽ phán xét anh ta trong ngày cuối cùng.”

The Lord said to me, “Are you ready to see what I am going to show you?” “Yes, Lord,” I said. He took me to a cell where I could see a young man being tormented among the flames. I noticed that the cell was enumerated, though I couldn’t understand the numbers, they seemed to be backward. There was a huge plaque in that cell, and the young man had the number “666” on his forehead. He also had a big metallic plate that was encrusted into his skin. The worms that were eating him, were unable to damage that plate; neither did the flames burn it. He screamed, “Lord, have mercy on me. Take me out of this place. Forgive me, Lord!” But Jesus would respond, “It’s late, too late: I gave you opportunities and you would not repent.” I asked Jesus, “Lord, why is he here?” Then I recognized him. On Earth, this young man knew the Word of God, but abruptly he walked away from the Lord, preferring alcohol, drugs and walking on the wrong path. He did not want to follow the way of the Lord. Jesus warned him many times on what could happen to him. Jesus said, “Daughter, he is in this place because anyone who rejects My Word already has a judge: The Word that I have spoken will judge him in that last day,”

Điều 18: Hỏa ngục là nơi Chúa dựng nên để hình phạt ma quỷ (Ma-thi-ơ 25:41), không phải là nơi để ma quỷ hành hạ những người bị hư mất. Hiện nay chưa có ai trong hỏa ngục vì chưa đến kỳ phán xét.

Angelica:

Tôi không bao giờ tưởng tượng sẽ nhìn thấy một người thân của mình trong phòng giam đó. Tôi nhìn thấy một người đàn bà đang bị hành hạ. Bà có những con sâu ăn hết khuôn mặt của bà và những con quỷ phóng một thứ như cây giáo vào thân thể của bà. Bà ta kêu la: “Không! Lạy Chúa, xin thương xót con, xin tha thứ con, xinđem con ra khỏi nơi này chỉ một phút mà thôi!”

I never could have imagined seeing a relative of mine in that cell. I saw this woman being tormented, she had worms that would eat her face off, and demons would plunge a type of spear into her body. She would scream, “No, Lord, have mercy on me, forgive me, please, take me out of this place for one minute!”

So về mức độ phạm tội thì ma quỷ phạm tội trầm trọng hơn và nhiều hơn loài người, vì ma quỷ được tận mắt nhìn thấy sự vinh quang của thiên đàng mà vẫn phản nghịch Chúa, và ma quỷ có mặt từ nhiều ngàn năm nay, trong khi loài người chỉ sống và phạm tội trong một thời gian ngắn. Vậy, nếu ma quỷ hành hạ người có tội trong hỏa ngục thì ai hành hạ ma quỷ là những kẻ nặng tội hơn? Vì thế, bất cứ “khải tượng” nào về hỏa ngục mà trong đó có cảnh ma quỷ như là những viên cai ngục, hành hạ tội nhân, thì “khải tượng” đó không đến từ Chúa. Và điều quan trọng là, hiện nay chưa có ai bị ném vào hỏa ngục. Linh hồn của những người chết không tin Chúa sẽ bị tạm giam trong âm phủ (Lu-ca 16:22-24), là nơi cũng có lửa nóng khiến cho khổ sở, nhưng đó không phải là hỏa ngục, và không có chuyện thi hành án phạt, vì chưa bị phán xét, cũng không có chuyện bị ma quỷ hành hạ. Đây là chi tiết quan trọng thứ nhất để nhận biết một khải tượng về hỏa ngục không đến từ Chúa.

Điều 19: Trong hỏa ngục cũng như trong âm phủ không ai có thể tiếp tục phạm tội, nói chi đến việc nguyền rủa Chúa.

Angelica:

Khi chúng tôi rời nơi đó, bà cố của tôi đã bị lửa bao phủ, bà kêu la: “Aaaah!” và bà bắt đầu phạm thượng danh Đức Chúa Trời, bà nguyền rủa Đức Chúa Trời. Mỗi một người trong hỏa ngục đều phạm thượng, nghịch cùng Đức Chúa Trời.

When we left that place, my great grandmother was engulfed in fire and she screamed, “Aaaah,” and began to blaspheme the name of God, she would curse Him; every person in hell blasphemes against God.

Thánh Kinh dạy: “Bởi có chép rằng: Chúa phán: Thật như Ta hằng sống, mọi đầu gối sẽ quỳ trước mặt Ta, và mọi lưỡi sẽ tôn vinh Đức Chúa Trời” (Rô-ma 14:11); và “Hầu cho nghe đến danh Đức Chúa Jesus, mọi đầu gối trên trời, dưới đất, bên dưới đất, thảy đều quỳ xuống” (Phi-líp 2:10).

Từ ngữ “bên dưới đất” chỉ về âm phủ, nơi các linh hồn không có sự cứu rỗi bị tạm giam, và vực sâu không đáy, nơi các thiên sứ phạm tội trọng bị tạm giam. Khi nghe đến danh của Đức Chúa Jesus thì tất cả họ đều phải quỳ xuống mà tôn vinh Ngài. Vậy, làm sao có chuyện trong hỏa ngục các linh hồn phạm tội có thể nguyền rủa Chúa ngay trước mặt Ngài?

Angelica, cũng như tất cả tác giả của những tác phẩm về khải tượng hỏa ngục, cho rằng các linh hồn tội nhân trong hỏa ngục có thể nguyền rủa Chúa ngay trước mặt Ngài!Đây là chi tiết quan trọng thứ hai để nhận biết một khải tượng về hỏa ngục không đến từ Chúa.

Điều 20: Hỏa ngục không phải là nơi để ma quỷ hành hạ linh hồn các tội nhân.

Angelica:

Chúa phán với tôi rằng, có nhiều người danh tiếng ở trong hỏa ngục, và cũng có nhiều người từng biết về Chúa. Ngài phán: “Ta sẽ chỉ cho con một phần khác của lò lửa.” Chúng tôi đến một nơi có một người đàn bà bị bao phủ bởi những ngọn lửa. Bà ta đang ở trong cơn khổ hình cùng cực và kêu la, van nài sự thương xót của Chúa. Đức Chúa Jesus lấy tay chỉ vào bà ta và nói với tôi: “Con gái, người đàn bà mà con nhìn thấy kia, bị những ngọn lửa bao phủ, là Selena.” Trong khi chúng tôi tiến đến gần hơn thì bà ta kêu la: “Lạy Chúa, xin thương xót con, xin đem con ra khỏi nơi này!” Nhưng Chúa nhìn bà ta và phán: “Đã trể rồi! Đã quá trể rồi! Giờ đây, ngươi không thể ăn năn.”

Bà ta nhìn thấy tôi và nói: “Tôi xin cô hãy đi nói với mọi người về việc này. Xin hãy nói lên, đừng im lặng. Đi và bảo họ đừng đến nơi này. Đi và bảo họ đừng nghe những bài hát của tôi, cũng đừng hát những bài hát của tôi.” (I Giăng 2:15). Thế nên tôi hỏi bà: “Tại sao bà muốn tôi nói như vậy?” Và, bà ta trả lời: “Bởi vì mỗi một lần người ta hát và nghe những bài hát của tôi, tôi bị khổ hình càng hơn. Người hát và nghe những bài hát của tôi đang đi vào chốn này. Xin hãy đi và nói với họ đừng đến nơi đây. Đi và nói với họ rằng hỏa ngục có thật.” Bà ta đã kêu la, và những con quỷ từ xa phóng các ngọn giáo vào thân thể của bà, và bà kêu khóc: “Xin cứu con, lạy Chúa! Xin Chúa thương xót con!” Nhưng Chúa buồn bả nói với bà: “Đã quá trể!”

The Lord told me there were many famous people in Hell, and also many people who had known about the Lord. He said, “I am going to show you another part of the furnace.” We came to a place where a woman was surrounded by flames. She was in great torment and would scream, begging the Lord for mercy. Jesus pointed to her with his hand and told me, “Daughter, that woman that you see over there, surrounded by flames, is Selena.” As we started getting closer, she screamed, “Lord, have mercy on me, forgive me Lord, take me out of this place!” But the Lord looked at her and said, “It’s late, it’s too late. You cannot repent now.”

She saw me and said, “Please, I beg you, go tell people about this, please speak out and do not be silent; go and tell them not to come to this place; go and tell them not to listen to my songs, nor sing my songs.” (1 John 2:15) So I asked her, “Why do you want me to go and say that?” And she answered, “Because every time people sing and listen to my songs, I am tormented even more, the person who does this, who sings and listens to my songs, is walking to this place. Please, go tell them not to come here; go tell them that hell is real!” She would scream and demons would hurl spears from afar into her body and she would cry, “Help me, Lord, have mercy on me, Lord!” But sadly, the Lord told her, “It is too late.”

Tương tự như điều 18 trên đây, hỏa ngục không phải là nơi để ma quỷ hành hạ linh hồn các tội nhân, cho nên, không thể có việc những con quỷ phóng giáo vào thân thể của tội nhân. Vả lại, thân thể của tội nhân chưa được gọi sống lại để ném vào hỏa ngục sau cơn phán xét chung thẩm (Khải Huyền 20:11-15), thì làm sao tội nhân có một thân thể trong hỏa ngục để hứng các mũi giáo của ma quỷ? Ngoài ra, tội nhân chưa ra trước tòa phán xét để chịu phán xét về mỗi việc làm của mình, thì chưa thể có hình phạt; vì thế, không thể nào có chuyện mỗi khi có người nghe và hát các bài hát của Selena, thì bà ta bị khổ hình càng hơn.

Điều 21:Thánh Kinh không hề dạy rằng: Trong hỏa ngục, các tội nhân sẽ tái diễn sự phạm tội của mình cách không ngừng nghỉ.

Angelica:

Tôi nhìn bao quát khắp khu vực đó, nó chứa đầy các ca sĩ và nghệ sĩ đã qua đời. Tất cả những gì họ làm là ca hát và ca hát, họ không thể ngừng ca hát. Chúa giải thích: “Con gái, những người nào ở đây thì phải tiếp tục làm bất cứ những gì họ đã làm trên đất, nếu họ không hề ăn năn.”

I looked all over that area, it was full of singers and artists who have died. All they did was sing and sing, they wouldn’t stop singing. The Lord explained, “Daughter, the person who is here, must continue doing here, whatever they did on Earth, if they had not repented.”

Lời nói được gán cho Chúa, cho rằng, hễ những ai trên đất phạm tội gì mà không ăn năn, thì phải vào hỏa ngục tiếp tục phạm tội đó, là một lời nói hoàn toàn vô lý. Nếu một người chuyên cướp của, giết người, hà hiếp người khác trên đất mà sau khi chết, đi vào hỏa ngục và sẽ tiếp tục làm những việc đó không ngừng nghỉ, thì ai sẽ là các nạn nhân vô tội trong hỏa ngục cho các hành động tội lỗi được lập đi lập lại của người đó? Chưa kể, những người ca sĩ mà Angelica nhìn thấy ca hát không ngừng nghỉ trong hỏa ngục, chắc chắn là họ còn phạm những tội khác kinh khủng hơn là ca hát những bài hát tội lỗi, vậy, tại sao họ lại không tái diễn các hành động tội lỗi khác đó, thí dụ như: kiêu ngạo, gian dâm, say sưa, tham lam, dối trá, thờ thần tượng… mà chỉ tái diễn sự ca hát? 

Điều 22: Đức Chúa Jesus là chứng nhân trung thành của Angelica?

Hỡi con gái, nhiều người sẽ không tin con nhưng Ta là chứng nhân trung thành của con, Ta là chứng nhân trung thành của con.

Daughter, many will not believe you, but I am your faithful witness, I am your faithful witness.  I will never leave you. 

Điều 23: Thánh Kinh không dạy rằng ma quỷ hội họp nơi âm phủ hay là hỏa ngục.

Angelica:

Đức Chúa Jesus phán: “Ma quỷ cũng hội họp trong chỗ này.” Và tôi hỏi: “Ma quỷ hội họp?” Đức Chúa Jesus đáp: “Phải, hỡi con gái, chúng họp để lên kế hoạch, lên kế hoạch những gì chúng sẽ làm cho nhân loại. Chúng nhóm họp bí mật mỗi ngày.”

Jesus said, “Demons also hold meetings in this place.” And I said, “Demons hold meetings?” Jesus said, “Yes, Daughter, they meet to plan, to plan what they will do to humanity. They hold daily secret meetings.”

Thánh Kinh dạy rằng ma quỷ cầm quyền ở chốn không trung và là chúa của đời này.

Ê-phê-sô 2:2 “đều là những sự anh em xưa đã học đòi, theo thói quen đời nầy, vâng phục vua cầm quyền chốn không trung tức là thần hiện đương hành động trong các con bạn nghịch.”

Ê-phê-sô 6:12 “Vì chúng ta đánh trận, chẳng phải cùng thịt và huyết, bèn là cùng chủ quyền, cùng thế lực, cùng vua chúa của thế gian mờ tối nầy, cùng các thần dữ ở các miền trên trời vậy.”

Vì thế, nếu ma quỷ muốn hội họp thì chúng sẽ hội họp ở chốn không trung hoặc ngay trên đất này. Âm phủ là nơi tạm giam các linh hồn tội nhân. Vực sâu không đáy là nơi tạm giam các thiên sứ phạm tội. Hỏa ngục là nơi Chúa sắm sẵn để hình phạt ma quỷ và những người bị hư mất, nhưng hiện nay chưa có sự phán xét thì trong hỏa ngục không thể có phạm nhân và cũng không thể có sự thi hành án phạt.

Điều 24: Thánh Kinh không hề nói trong thiên đàng có một ngai lớn và một ngai nhỏ hơn.

Angelica:

Tôi nhìn thấy một ngai lớn và một ngai nhỏ hơn được bao quanh bởi hàng ngàn cái ghế.

I observed a large throne, and a smaller throne surrounded by thousands of chairs.

Thánh Kinh chép chỉ có một ngai của Chúa và 24 ngai của các trưởng lão ở chung quanh ngai của Chúa:

Khải Huyền 4:2-4 – Bản Dịch Ngôi Lời: “Liền theo đó, trong thần linh, tôi nhìn thấy một ngai được đặt trên trời, có một Đấng ngự trên ngai. Đấng ngồi đó trông rực rỡ như ngọc thạch anh và ngọc mã não. Có cầu vồng, nhìn như  là lục cẩm thạch, bao chung quanh ngai. Chung quanh ngai ấy lại có hai mươi bốn ngai và tôi thấy hai mươi bốn trưởng lão mặc áo trắng, trên đầu đội mão bằng vàng, đang ngồi trên các ngai ấy.”

Thánh Kinh cũng dùng từ ngữ “ngai” số ít (chỉ có một ngai) để gọi ngai của Đức Chúa Trời và của Chiên Con; nghĩa là, Đấng Christ đồng ngự trên cùng một ngai với Đức Chúa Cha:

Khải Huyền 3:21 – Bản Dịch Ngôi Lời: “Kẻ nào thắng, Ta sẽ cho ngồi với Ta trên ngai Ta như Ta đã thắng và ngồi với Cha Ta trên ngai Ngài.”

Khải Huyền 22:1 – Bản Dịch Ngôi Lời: “Thiên sứ chỉ cho tôi sông tinh khiết của nước sự sống, trong như thủy tinh, từ nơi ngai của Đức Chúa Trời và Chiên Con chảy ra.”

Thực tế, trong toàn bộ sách Khải Huyền, khi Giăng ghi lại các khải tượng ông nhìn thấy trên thiên đàng, lúc nào ông cũng chỉ ghi ngai của Chúa là số ít.

Điều 25: Thiên sứ đang xây dựng nơi ở cho các thánh đồ trên thiên đàng?

Angelica:

Mọi sự xinh đẹp vô cùng, rực rở vô cùng, chiếu sáng như thủy tinh, tuyệt đối siêu nhiên, không thể diễn tả. Chúng tôi nhìn thấy các biệt thự của thiên đàng, và nhìn xem hàng ngàn thiên sứ đang xây dựng chúng. Một số thiên sứ xây dựng rất nhanh, những vị khác xây dựng rất chậm, và những vị khác thì không xây dựng gì cả.

Everything was so beautiful, so brilliant, like shining glass, it was absolutely supernatural, inexplicable!  We saw heavenly mansions, and watched thousands of angels constructing them.  Some of the angels constructed very rapidly, others constructed slowly and others were not constructing at all.

Thánh Kinh không nói đến việc các thiên sứ đang xây dựng nơi ở cho các thánh đồ, và tốc độ xây dựng tùy thuộc vào mức độ sốt sắng hầu việc Chúa, giảng Tin lành của các thánh đồ trên đất. Thánh Kinh nói Đức Chúa Trời đã sắm sẵn cho họ một thành.  Đức Chúa Jesus Christ cũng nói trong nhà Cha Ngài đã có nhiều chỗ ở, và Ngài đi sắm sẵn một chỗ cho các môn đồ của Ngài.

Hê-bơ-rơ 11:6 “nhưng họ ham mến một quê hương tốt hơn, tức là quê hương ở trên trời; nên Đức Chúa Trời không hổ thẹn mà xưng mình là Thiên Chúa của họ, vì Ngài đã sắm sẵn cho họ một thành.”

Giăng 14:2 – Bản Dịch Ngôi Lời: “Trong nhà của Cha Ta có nhiều chỗ ở, nếu không, Ta đã nói với các ngươi. Ta đi để sắm sẵn cho các ngươi một chỗ.”

Câu Ngài đã sắm sẵn cho họ một thànhtrong Hê-bơ-rơ 11:6có nghĩa là thành đó đã được tạo dựng xong, tương tự như câu “việc lành mà Đức Chúa Trời đã sắm sẵn trước cho chúng ta làm theo” trong Ê-phê-sô 2:10, có nghĩa là các việc lành đó đã sẵn sàng để cho chúng ta nhận lãnh mà thi hành. Từ ngữ “sắm sẵn” trong Giăng 14:2 không có nghĩa là xây dựng, mà có nghĩa là Đấng Christ chuẩn bị một chỗ trong nhiều chỗ ở thiên đàng cho Hội Thánh của Ngài. Nhà của Cha hay thành thánh trên thiên đàng đã được Thiên Chúa sáng tạo từ trong cõi đời đời; và trong nhà đó, trong thành đó có nhiều chỗ ở, mà Đấng Christ, sau khi hoàn thành công việc chuộc tội cho nhân loại và thành lập Hội Thánh, thì Ngài tiến hành công việc biệt riêng ra một chỗ trong các chỗ đó, làm nơi ở cho Hội Thánh của Ngài.

Tư tưởng cho rằng chỗ ở của mỗi thánh đồ trên thiên đàng được các thiên sứ xây dựng nhanh hay chậm, tùy theo tốc độ hầu việc Chúa của thánh đồ trên đất, là một tư tưởng trẻ con. Giả sử, có một thánh đồ nào làm việc nửa chừng rồi qua đời, thì không lẽ trên thiên đàng sẽ có một biệt thự xây dựng nữa chừng cho thánh đồ đó? Thiên đàng là một nơi toàn hảo, không thể có chuyện có nhiều chỗ ở chỉ được xây dựng dỡ dang. Thêm một giả sử khác, nếu có một thánh đồ nào đó tích cực hầu việc Chúa cho đến cuối đời, cho nên, biệt thự của thánh đồ đó trên thiên đàng được các thiên sứ thi công cách nhanh chóng, hầu như là sắp hoàn tất. Nhưng lỡ như trong giây phút cuối đời, thánh đồ đó vì một lý do gì, chối Chúa, phạm tội, không ăn năn, (như Giu-đa Ích-ca-ri-ốt), thì không lẽ các thiên sứ lại đập phá công trình của mình?

Điều 26: Không có sự chết trong ngày Chúa cất Hội Thánh ra khỏi thế gian? Đức Thánh Linh không ở trên đất trong thời đại nạn?

Agelica:

Tôi nhìn thấy những người biết Chúa nhưng bị bỏ lại (Ma-thi-ơ 24:40, 41). Họ đang nói rằng: Đấng Christ đã đến và sự cất lên đã xảy ra. Họ kêu la và muốn tự sát nhưng họ không thể. Chúa phán với tôi: “Hỡi con gái, trong những ngày đó, sự chết sẽ trốn mất. Hỡi con gái, trong những ngày đó Đức Thánh Linh sẽ không còn ở trên đất (Khải Huyền 9:6). Có nhiều tai nạn nhưng tôi không thấy có một người chết nào cả. Tất cả họ đều sống, dù bị thương.

I saw those who had known the Lord, but were left behind. (Matt 24:40-41) They were saying that Christ had come, the Rapture happened.  They screamed and wanted to kill themselves, but they couldn’t.  The Lord told me, “Daughter, in those days, death will flee; Daughter, in those days the Holy Spirit will no longer be on Earth.”  (Revelations 9:6) There were accidents but I didn’t see a single dead person: all of them were alive, although injured.

Qua lời chứng trên đây của Angelica chúng ta có thể thấy rõ là cô không hiểu Thánh Kinh; và ngay trong chi tiết này đã cho thấy toàn bộ lời chứng của cô chỉ có thể: hoặc là một sự bịa đặt hoặc là cô đã bị tà linh giả làm Đức Chúa Jesus để tạo các ảo giác cho cô, như trường hợp những người ngồi thiền có ảo giác được vào trong các tầng trời. Khải Huyền 9:6 cho biết, chỉ sau khi tiếng loa thứ năm được thiên sứ thổi lên, ma quỷ bị giam trong vực sâu không đáy được thả ra, lên trên mặt đất với hình dáng những con châu chấu, làm khổ những người không có dấu ấn của Đức Chúa Trời, thì lúc ấy, loài người muốn tìm chết mà không được. Khải Huyền 8:11 cho biết, trước đó, khi tiếng loa thứ ba được thổi thì có một ngôi sao tên là khổ thảo rơi vào một phần ba các sông lớn và các suối nước, khiến cho một phần ba nước biến ra mùi khổ thảo, và nhiều người chết vì chất nước đó.

Khải Huyền 8:10, 11 – Bản Dịch Ngôi Lời: “Thiên sứ thứ ba thổi loa, có một ngôi sao lớn từ trời, cháy như một ngọn đuốc, rơi xuống trên một phần ba các dòng sông và các nguồn nước. Tên của ngôi sao ấy là Khổ Thảo. Một phần ba nước trở thành khổ thảo và nhiều người chết bởi uống nước, vì nước đã trở nên đắng.”

Sau khi Chúa đem Hội Thánh ra khỏi thế gian và bắt đầu phán xét thế gian trong bảy năm đại nạn, nếu Đức Thánh Linh không ở trên đất thì ai cáo trách tội lỗi, kêu gọi loài người ăn năn, và đóng ấn cho những người tin Chúa trong suốt thời gian đó? Quan niệm cho rằng, vì Đức Thánh Linh ở với Hội Thánh, cho nên, sau khi Hội Thánh được cất ra khỏi thế gian thì Đức Thánh Linh không còn ở trong thế gian nữa, là một quan niệm sai lầm.

Điều 27: Không còn cơ hội được cứu trong thời đại nạn?

Angelica:

Rồi, tôi thấy người ta chạy từ nơi này sang nơi nọ, la lên: “Đấng Christ đến! Đấng Christ đến!” Họ van xin: “Lạy Chúa, xin tha thứ cho con, xin tha thứ cho con, xin đem con đi với Ngài!” Nhưng Chúa buồn bả nói: “Sẽ quá trể! Thời điểm để ăn năn là hiện nay… Hỡi con gái, hãy đi nói cho nhân loại tìm kiếm Ta, vì trong suốt thời gian đó sẽ không còn cơ hội nữa (Ê-sai 55:6). Hỡi con gái, lúc ấy sẽ quá trể cho những ai bị bỏ lại!”

I then saw people running from one place to another, shouting, “Christ came, Christ came!”  They would plead, “Lord, forgive me, forgive me, take me with You!” But sadly the Lord said, “It will be too late.  The time to repent is now…Daughter, go tell humanity to seek Me, for during that time there will no longer be opportunity.  (Isaiah 55:6)  Daughter, it will be too late for all those that stay behind.”

Thánh Kinh cho biết, Đấng Christ sẽ đem Hội Thánh ra khỏi thế gian trước khi cơn đại nạn bắt đầu, vì Ngài hứa rằng Hội Thánh sẽ được giữ khỏi cơn đại nạn.

Khải Huyền 3:10 – Bản Dịch Ngôi Lời: “Vì ngươi đã giữ lời của sự nhẫn nại Ta, Ta cũng sẽ giữ ngươi khỏi giờ thử thách là giờ sẽ đến trên mọi người trong thế gian để thử nghiệm những kẻ ở trên đất.”

Sau khi tất cả những người tin Chúa thật được mang ra khỏi thế gian, thì sẽ có nhiều người ăn năn tin nhận Chúa trong suốt bảy năm đại nạn, đặc biệt là dân I-sơ-ra-ên. Họ là những thánh đồ của Chúa trong thời đại nạn (Khải Huyền 12:17; 18:4). Nhiều người sẽ phải chịu chết dưới tay Anti-Christ, và linh hồn họ được vào ở dưới bàn thờ trên thiên đàng (Khải Huyền 6:9; 20:4). Như vậy, rõ ràng là Angelica đã bịa đặt hoặc là Sa-tan đã giả làm Đức Chúa Jesus và nói những lời dối trá, nghịch Thánh Kinh với Angelica.

Điều 28: Các dân tộc đang chờ Angelica sống lại?

Angelica:

Với các thiên sứ nhóm lại chung quanh, chúng tôi bắt đầu đi xuống những bậc thang đẹp đẽ, những bậc thang mầu trắng với các bông hoa bao chung quanh chúng. Tôi đã khóc trong khi đi xuống, van xin Đức Chúa Jesus: “Lạy Chúa, xin đừng bỏ con nơi đây, xin đem con đi với Ngài.” Ngài đáp: “Hỡi con gái, các dân tộc, gia đình của con đang chờ con… Hỡi con gái, con phải vào thân xác đó. Con phải nhận sự sống, hỡi con gái, để con có thể đi và làm chứng về những gì con đã thấy. Nhiều người sẽ không tin con, nhiều người sẽ tin con, nhưng Ta là chứng nhân thành tín của con. Ta ở với con. Ta sẽ không bao giờ lìa con.”

With angels gathered round, we began to descend these beautiful stairs; white steps with flowers surrounding them.  I was crying all the way down, pleading with Jesus, “Lord, please, don’t leave me here.  Take me with You!” He responded, “Daughter, the nations, your family are waiting for you…Daughter, you must enter that body.  You must receive life, Daughter, so you can go and testify what you have seen.  Many will not believe you; many will believe you, but I am your faithful witness.  I am with you.  I will never leave you.”

Qua lời chứng trên đây của Angelica, chúng ta thấy cô khẳng định Chúa phán với cô rằng, các dân tộc và gia đình cô đang chờ đợi cô. Điều này hàm ý họ đang chờ cô sống lại để làm chứng về những điều cô được nhìn thấy trong khi chết. Một cách gián tiếp, điều này có nghĩa là cô được Chúa kêu gọi vào chức vụ “tiên tri” hoặc “chứng nhân” cho toàn thể nhân loại. Thánh Kinh không nói rằng, trong những ngày cuối cùng Chúa sẽ khiến cho ai đó chết đi rồi sống lại, để làm tiên tri hay chứng nhân cho toàn nhân loại. Chính Đấng Christ, là Đấng đã chết đi và sống lại, là tiên tri và chứng nhân cho toàn thể nhân loại. Trong những ngày sau rốt, Ngài sẽ sai hai chứng nhân của Ngài đến, để làm chứng cho toàn thế gian, kèm theo các dấu kỳ phép lạ, như đã được ghi trong Khải Huyền 11; rồi họ sẽ bị giết và sẽ sống lại, sẽ thăng thiên trước mắt toàn thế gian. Trong những ngày sau rốt, Chúa cũng sẽ cho thiên sứ của Chúa bay giữa trời mà rao truyền Tin Lành cho mọi dân tộc. Vì thế, hễ ai tự xưng mình là tiên tri hay chứng nhân cho toàn thế gian trong những ngày sau rốt này, đều là kẻ giả mạo. Đây là chi tiết quan trọng thứ ba để nhận biết một khải tượng về hỏa ngục không đến từ Chúa.

Khải Huyền 14:6 – Bản Dịch Ngôi Lời: “Tôi thấy một thiên sứ khác bay giữa trời, có Tin Lành Vĩnh Cửu giảng cho cư dân trên đất, cho mỗi quốc gia, mỗi chi tộc, mỗi ngôn ngữ, và mỗi dân tộc.”

Điều 29: Những thể hiện khác thường sau khi Angelica được “sống lại:”

Khi con gái của tôi trở lại, thì chúng tôi đang chờ ở đó, và cô duỗi người ra trên sàn nhà. Cô ậm ừ trong miệng nhưng không nói gì khác. Tôi nói: “Cảm tạ Chúa, vì con gái con đã trở lại.” Chúng tôi bắt đầu dâng lời cảm tạ Chúa. Không bao lâu sau, cô bắt đầu thở chậm, từng hơi một. Sau chừng năm tiếng đồng hồ cô đã có thể mở mắt và nói. Ban đầu, chúng tôi khó mà hiểu được cô nói gì, vì tiếng nói không rõ. Cô không có sức mạnh. Chúng tôi phải giữ các cửa sổ được che kín vì mắt của cô không thể tiếp nhận ánh sáng. Chúng tôi tò mò, muốn cô kể cho chúng tôi những gì cô đã thấy. Nhưng vì cô quá yếu, cô chỉ có thể nói một ít cho chúng tôi. Phải hai tuần lễ sau, cô mới có thể chia sẻ toàn bộ lời chứng.

When my daughter came back, we were waiting there, and she was stretched out on the floor.  She went, “uuhmm,” nothing else.  I said, “Thank You, Lord, because my daughter is back!” We all gave thanks to the Lord.  Soon she started breathing slowly, little by little.  After about five hours, she was able to open her eyes and talk.  At first we could hardly understand what she was saying; it just wasn’t clear.  She had no strength.  We needed to keep the windows covered, because her eyes couldn’t handle the light. Being curious, we all wanted her to tell us what she saw.  But because she was so weak, she could only tell us a little.  It was 2 weeks until she was able to share her full testimony.

Thánh Kinh ghi lại chuyện ông La-xa-rơ chết đã được bốn ngày và chôn vào mồ, nhưng khi Chúa gọi ông sống lại thì ông đi ra một cách bình thường (Giăng 11). Một người bị mù từ khi sinh ra, nghĩa là trong đời chưa bao giờ nhìn thấy ánh sáng, thế nhưng, sau khi được Chúa chữa lành thì không hề bị trở ngại gì với ánh sáng (Giăng 9). Một người bị liệt 38 năm không thể tự mình di chuyển, thế nhưng, sau khi được Chúa chữa lành thì có sức mạnh đứng dậy, vác giường mình mà đi (Giăng 5). Những biểu hiện khác thường của Angelica sau khi “sống lại,” cho chúng ta thấy kinh nghiệm của cô không đến từ Chúa mà đến từ tà linh. Người viết đóng dấu kép chữ “sống lại,” vì người viết cho rằng Angelica không hề chết, mà cô chỉ rơi vào tình trạng bị tà linh xâm nhập như những người ngồi đồng, ngồi thiền, cầu vong mà thôi.

Điều 30: Người được Chúa chọn làm chứng nhân cho các dân tộc mà không thể đuổi quỷ?

Angelica:

Sau những việc này, những con quỷ đến và hành hạ cô. Cô có thể nhìn thấy chúng một cách rõ ràng. Chúng cố ẩn mình trong các bóng tối. Chúng đã đến đây trong ba ngày sau khi cô trở lại, trước khi cô có thể nói chuyện. Cô hỏi chúng rằng, chúng muốn gì; và chúng đã trả lời: Chúng tôi đến đây để lập một cam kết với cô… Cô phải ngậm miệng. Cô không được nói những gì cô đã thấy dưới kia, bởi vì, nếu cô nói thì chúng tôi sẽ giết cô.” Cô diễn tả những con quỷ bự con, xấu xí, và mập, xấu xí. Cô nói rằng chẳng có lời nào để diễn tả dáng dấp kinh khiếp của chúng nó. Cô xua đuổi chúng nó nhưng chúng nó chẳng đi. Khi chúng đến, chúng nhảy lên người cô và cố bóp cổ cô. Cô chống trả và xua đuổi chúng, nhưng cô không có sức lực.

Demons came to torment her after all this.  She could see them clearly, they would try to hide themselves in the shadows.  They were here within three days of her return, before she could really talk.  She asked them what they wanted and they replied, “We have come to make a pact with you…You must shut up.  You must not say anything of what you saw down there, because if you speak, we will kill you.” She described the demons as ugly, large and fat, ugly.  She said there were no words to describe how horrible they looked.  She would rebuke them, but they would not leave.  When they came they would jump on her and try to choke her.  She would fight back rebuking them, but she had no strength.

Lời Chúa phán rõ ràng trong Mác 16:17 rằng, những ai tin nhận Chúa thì có thể lấy danh Chúa mà trừ quỷ. Đức Thánh Linh cũng dạy con dân Chúa: “Vậy, hãy phục Đức Chúa Trời; hãy chống trả ma quỷ, thì nó sẽ lánh xa anh em” (Gia-cơ 4:7). Vậy mà, Angelica đã không thể xua đuổi ma quỷ? Điều đó cho thấy, toàn bộ sự kiện: “Chúa làm cho Angelia chết, mang cô đến hỏa ngục và thiên đàng, cho cô thấy khải tượng ngày Chúa cất Hội Thánh ra khỏi thế gian, khiến cô sống lại, và sai cô đi làm chứng những điều cô đã thấy cho các dân tộc, chỉ là một vỡ kịch do ma quỷ dựng nên. Chúng tạo ra màn hù dọa để cho bản thân cô tin rằng, tất cả những sự đó đến từ Chúa và ma quỷ tìm cách ngăn cản cô làm chứng.

Dù vậy, đối với con dân chân thật của Chúa, với sự hiện diện của Đức Thánh Linh trong thân thể mình, dẫn mình vào mọi lẽ thật của Lời Chúa (Giăng 16:13), thì sẽ dễ dàng nhận ra những giả trá trong lời chứng của Angelica.

Kết Luận

Câu hỏi được đặt ra là: Tại sao ma quỷ tạo ra sự kiện này để cho Angelica trở thành một nhà truyền giáo được nhiều người nghe? Có nhiều báo cáo cho thấy lời chứng của Angelica đã khiến cho nhiều người tin nhận Chúa. Không lẽ Sa-tan tự làm hại chính vương quốc của nó? Thực tế, Angelica không phải là người đầu tiên mà là đã có hàng chục người với lời chứng về các khải tượng thiên đàng và hỏa ngục tương tự như cô, hiện nay, họ đều là những “nhà truyền giáo” của những tổ chức giáo hội lớn.

Thật ra, Sa-tan không ngại người ta tin nhận Chúa. Đối với Sa-tan, vấn đề là một người tin nhận Chúa trên nền tảng nào? Sau khi tin nhận Chúa được dạy dỗ Lời Chúa như thế nào? Nếu một người vì sợ hãi hỏa ngục mà tin nhận Chúa (chứ không phải vì thật lòng chán ghét tội lỗi, muốn tin Chúa để được thánh hóa), rồi bị đưa dắt vào trong các tổ chức giáo hội với các giáo lý nghịch Thánh Kinh, như: Tin Lành Thịnh Vượng, Báp-tem bằng Thánh Linh, Tin Chúa một lần được cứu vĩnh viễn; Tín đồ của Chúa không cần vâng giữ Mười Điều Răn… thì Sa-tan sẽ hết sức ủng hộ. Từ ngàn xưa, những người Pha-ri-si cũng đã nổ lực đi truyền giáo, khiến cho người ta tin đạo, nhưng rồi sau đó biến người tin thành người địa ngục gấp hai họ:

Ma-thi-ơ 23:15 “Khốn cho các ngươi, thầy thông giáo và người Pha-ri-si, là kẻ giả hình! vì các ngươi đi khắp dưới nước, trên bộ để khuyên một người vào đạo mình; và khi đã khuyên được rồi, thì các ngươi làm cho họ trở nên người địa ngục gấp hai các ngươi.”

Câu hỏi kế tiếp: Tại sao Chúa để cho cô bé Angelica bị Sa-tan lường gạt như vậy? Câu trả lời là: Nếu một người tin Chúa mà không hết lòng tìm kiếm Chúa qua sự tương giao với Ngài, qua sự đọc, suy gẫm, cẩn thận làm theo Lời của Ngài (Giô-suê 1:8), thì người đó thiếu sự thông biết. Làm con dân Chúa mà thiếu sự thông biết thì sẽ bị diệt (Ô-sê 4:6). Đọc qua lời làm chứng của Agelica, chúng ta có thể nhận thấy cá tính của cô. Là một người tin Chúa nhưng Angelica: ngỗ nghịch với cha mẹ, ham tìm kiếm dấu kỳ phép lạ, ích kỷ, chỉ muốn hành động theo ý mình, không biết phục thiện, không biết nói xin lỗi mà chỉ thích cải, không có sự hiểu biết Lời Chúa. Đó cũng là thái độ chung của rất nhiều người tin Chúa ngày hôm nay, và chắc chắn, những người tin vào lời chứng của Angelica cũng có cá tính tương tự như vậy.

Các phong trào gọi là “khải tượng” về thiên đàng và hỏa ngục trong mấy thập niên gần đây, đặc biệt là tại Nam Mỹ và Nam Hàn, cho thấy Sa-tan đang dùng sự hù dọa để kéo người vào trong các giáo hội mang danh Chúa, giả làm Hội Thánh của Chúa, để rồi sẽ khiến cho những người đó trở thành người địa ngục gấp hai những người chiêu dụ họ. Đó là số phận của những người không thật lòng ghét tội, ăn năn tội, và tìm kiếm lẽ thật của Lời Chúa!

Nguyện Đức Thánh Linh là Thần Lẽ Thật, thánh hóa mỗi một con dân chân thật của Chúa bằng Lời Chúa, và dẫn họ vào trong mọi lẽ thật của Lời Ngài. A-men!

Huỳnh Christian Timothy
02.12.2011

Bấm vào đây để download bài viết này
Bấm vào đây để download bài viết này cho Kindle

Bấm vào đây để nghe âm thanh – phần 1
Bấm vào đây để nghe âm thanh – phần 2

Copyright Notice: All Rights Reserved © 2011 Vietnamese Christian Mission Ministry Church, Inc. Mọi người có thể sao chép, phổ biến dưới mọi hình thức nhưng xin giữ đúng nguyên văn, kể cả thông báo về tác quyền này.