Ngày Sa-bát của Thiên Chúa

1,175 views

YouTube: https://youtu.be/wvGxxWpi5G4

Ngày Sa-bát Của Thiên Chúa

Huỳnh Christian Timothy
Huỳnh Christian Priscilla

Kính mời quý con dân Chúa dành thời gian nghe bài giảng này, có nhiều thí dụ và giải thích chi tiết hơn là phần bài viết.

Bấm vào nút “play” ► dưới đây để nghe

Bấm vào nút “play” ► dưới đây để nghe

Bấm vào một trong các nối mạng dưới đây để nghe hoặc tải xuống mp3 bài giảng này:

Bấm vào một trong các nối mạng dưới đây để tải xuống bài viết pdf:

Dẫn Nhập

Xưa nay, lịch sử của loài người chưa bao giờ có sự giải thích vì sao mà một tuần lễ có chu kỳ bảy ngày; cũng không có tín ngưỡng hoặc tôn giáo nào dành ra một ngày trong mỗi tuần để làm ngày yên nghỉ và thờ phượng thần linh, ngoại trừ Thánh Kinh, Do-thái Giáo (Judaism), và một vài giáo hội trong Cơ-đốc Giáo (Christianity).

Danh từ Do-thái Giáo được dùng để chỉ tổ chức tôn giáo phát sinh trong vòng dân I-sơ-ra-ên trong khoảng thời gian chừng 400 năm Đức Chúa Trời im lặng đối với dân I-sơ-ra-ên. Đó là khoảng thời gian từ khi Tiên Tri Ma-la-chi qua đời cho tới khi Tiên Tri Giăng Báp-tít thi hành chức vụ. Do-thái Giáo thờ phượng Thiên Chúa của Thánh Kinh nhưng chỉ giữ Mười Điều Răn của Đức Chúa Trời theo hình thức bên ngoài và thêm vào nhiều điều răn do loài người làm ra.

Danh từ Cơ-đốc Giáo được dùng để gọi chung các giáo hội tin nhận Đức Chúa Jesus Christ là Thiên Chúa nhập thế làm người để cứu chuộc loài người ra khỏi sức mạnh và hậu quả của tội lỗi, nhưng không vâng giữ Mười Điều Răn của Đức Chúa Trời. Các giáo hội trong Cơ-đốc Giáo đều tự xưng là Hội Thánh của Chúa và gọi nhau là Hội Thánh của Chúa. Nhưng Hội Thánh thật của Chúa là tập thể những ai thật lòng ăn năn tội, hoàn toàn tin nhận sự chết chuộc tội của Đức Chúa Jesus Christ, và hết lòng vâng giữ các điều răn của Thiên Chúa. Hội Thánh thật của Chúa không thuộc về bất cứ một giáo hội nào của Cơ-đốc Giáo.

Trong thực tế, từ đông sang tây, loài người khắp nơi đều quen thuộc với việc chia thời gian thành tuần lễ bảy ngày. Sau cơn nước lụt của thời Nô-ê, vào khoảng năm 2000 TCN, nền văn minh Ba-by-lôn đã dùng hệ thống lịch với đơn vị tuần lễ bảy ngày. Sau đó, khoảng năm 500 TCN, vào thời của Phật Thích Ca, thì nền văn minh của Ấn Độ cũng bắt đầu tạo ra một hệ thống lịch, dùng đơn vị tuần lễ bảy ngày. Cách nay khoảng 1.400 năm, nền văn minh cổ của Ba-by-lôn truyền đến Trung Quốc, đem theo hệ thống tuần lễ bảy ngày; rồi từ Trung Quốc lan truyền qua Tây Tạng, Đại Hàn, Nhật Bản, và Việt Nam. Có một điểm đặc biệt là người Ba-by-lôn dùng tên của mặt trời, mặt trăng, và năm hành tinh khác là: Kim (Venus), Mộc (Jupiter), Thủy (Mercury), Hỏa (Mars), Thổ (Saturn) để đặt tên cho các ngày trong tuần. Các tên ấy là tên của các thần linh trong huyền thoại của họ. Riêng người Trung Quốc và người Việt thì đặt tên các ngày trong tuần lễ theo thứ tự số đếm; từ ngày Thứ Nhất, còn gọi là Chủ Nhật hoặc Chúa Nhật, cho đến ngày Thứ Bảy. Vào thế kỷ thứ 18, người Pháp làm một cuộc cách mạng về lịch, dùng hệ thống tuần lễ 10 ngày. Tuy nhiên, sau 12 năm sử dụng loại lịch mới đó (1793-1805), người Pháp cũng đã trở lại với hệ thống tuần lễ bảy ngày, bởi vì người ta không thể làm việc chín ngày mới có một ngày nghỉ.

Theo Thánh Kinh thì hệ thống tuần lễ bảy ngày là do chính Thiên Chúa thiết lập và đã có ít nhất là khoảng 6.000 năm nay, từ buổi đầu của sự sáng tạo vũ trụ, và ngay từ trang sử đầu tiên của lịch sử loài người. Sách đầu tiên của Thánh Kinh ghi lại công cuộc sáng tạo trời đất của Thiên Chúa với lời kết luận sau đây, trong Sáng Thế Ký 2:1-4:

1 Và như vậy, các tầng trời và đất, cùng muôn vật đã được hoàn tất.

2 Ngày Thứ Bảy, Thiên Chúa đã hoàn thành các công việc của Ngài mà Ngài đã làm. Và trong ngày Thứ Bảy, Ngài ngưng mọi công việc của Ngài mà Ngài đã làm.

3 Rồi, Ngài ban phước cho ngày Thứ Bảy, thánh hóa nó; vì trong ngày đó, Ngài ngưng mọi công việc của Ngài, những việc mà Thiên Chúa đã sáng tạo và đã làm. [Thánh hóa có nghĩa là làm cho tinh sạch hoặc giữ cho tinh sạch và biệt riêng ra cho Thiên Chúa.]

4 Ấy là về nguồn gốc của các tầng trời và đất khi chúng được sáng tạo, trong ngày Thiên Chúa Tự Hữu Hằng Hữu làm ra đất và các tầng trời.

I. Nguồn Gốc và Ý Nghĩa của Ngày Sa-bát

Theo nguyên tác Hê-bơ-rơ của Thánh Kinh, chữ “ngày nghỉ” trong điều răn thứ tư là “ngày Sa-bát”, và “sa-bát” có nghĩa là sự ngưng làm việc, sự ngưng lao động. Sa-bát không có nghĩa là sự nghỉ ngơi để lấy sức như vẫn thường bị hiểu lầm, mà chỉ đơn giản có nghĩa là sự ngưng làm việc, sự ngưng làm một điều gì đó vì đã hoàn tất hoặc vì không muốn tiếp tục làm. Khi được hiểu đúng nghĩa như vậy, thì sẽ không gây ra sự thắc mắc là tại sao Đức Chúa Trời lại cần phải nghỉ ngơi để lấy sức, sau sáu ngày dựng nên các tầng trời và đất, cùng muôn vật trong chúng.

Sáng Thế Ký 2:3 và Xuất Ê-díp-tô Ký 20:11 cho chúng ta biết, Đức Chúa Trời “ban phước cho ngày Thứ Bảy, đặt là ngày thánh”, cho nên, ngày Sa-bát, hay ngày Nghỉ, chính là ngày Thứ Bảy trong tuần lễ. Đức Chúa Jesus cho biết, “Ngày Sa-bát đã được làm nên vì loài người, không phải loài người được làm nên vì ngày Sa-bát.” (Mác 2:27).

Qua sự giãi bày của Thánh Kinh, chúng ta có thể hiểu về ngày Sa-bát như sau:

  • Ngày Sa-bát là ngày Thứ Bảy trong tuần lễ.

  • Ngày Sa-bát được chính Thiên Chúa dựng nên trong công trình sáng tạo trời đất. Ngày Sa-bát được sáng tạo như sáu ngày trước đó. Vì thế, không thể nào đánh đổi ngày Sa-bát với ngày Thứ Nhất hay bất cứ ngày nào khác.

  • Ngày Sa-bát là của Thiên Chúa và do Ngài cai trị. Thánh Kinh đã hai mươi lần khẳng định, ngày Sa-bát là ngày Sa-bát của Thiên Chúa. Vì thế, không ai có quyền bỏ đi hay thay đổi ngày Sa-bát (Xuất Ê-díp-tô Ký 16:25; 20:10; 31:13; Lê-vi Ký 19:3, 30; 26:2; Phục Truyền Luật Lệ Ký 5:14; Nê-hê-mi 9:14; Ê-sai 56:4; 58:13; Ê-xê-chi-ên 20:12, 13, 16, 20, 21, 24; 22:8, 26; 23:38; 44:24).

  • Ngày Sa-bát được thiết lập trước khi các điều răn và luật pháp được ban hành. Vì thế, khi các điều răn và luật pháp được ban hành thì điều răn thứ tư kêu gọi con dân Chúa, hãy “nhớ” đến ngày Sa-bát.

  • Ngày Sa-bát được Thiên Chúa ban phước và đặt làm ngày thánh, tức là một ngày biệt riêng ra cho Thiên Chúa.

  • Ngày Sa-bát có nghĩa là ngày nghỉ làm việc. Nghĩa là nghỉ làm những công việc có tính cách mưu sinh hoặc tạo sự thuận tiện trong cuộc sống. Mục đích là để thân thể xác thịt được nghỉ ngơi và con dân Chúa được thông công với nhau, thờ phượng Chúa. Trong ngày Sa-bát loài người vẫn có thể làm những việc lành.

  • Ngày Sa-bát được dựng nên vì loài người, cũng như trời đất và muôn vật được dựng nên vì loài người. Loài người không có quyền bỏ đi hoặc thay đổi ngày Sa-bát.

Xét về ý nghĩa thuộc linh, ngày Sa-bát là hình ảnh của sự yên nghỉ đời đời trong Đức Chúa Trời, khỏi mọi gánh nặng do tội lỗi mang đến (Hê-bơ-rơ 4:1-11). Khải Huyền 14:13 nói đến sự yên nghỉ khỏi những công việc trong đời này của những người chết trong Chúa.

II. Mối Tương Quan Giữa Ngày Sa-bát và Mười Điều Răn của Đức Chúa Trời

Thánh Kinh có ghi lại Mười Điều Răn Đức Chúa Trời đã ban truyền cho dân I-sơ-ra-ên. Mười Điều Răn đó là giao ước giữa Đức Chúa Trời với dân I-sơ-ra-ên:

Ông đã ở đó với Đấng Tự Hữu Hằng Hữu bốn mươi ngày và bốn mươi đêm. Ông không ăn bánh, cũng không uống nước. Ngài đã chép trên các bảng đá các lời giao ước, tức là Mười Lời.” (Xuất Ê-díp-tô Ký 34:28).

Điều răn thứ tư trong Mười Điều Răn là:

Hãy nhớ đến ngày Sa-bát để thánh hóa nó.” (Xuất Ê-díp-tô Ký 20:8).

Nếu xét tổng quát về nội dung và ý nghĩa của Mười Điều Răn, chúng ta sẽ thấy ba điều răn đầu tiên nói đến bổn phận của loài người đối với Đức Chúa Trời, là Đấng tạo dựng nên họ và giải cứu họ. Sáu điều răn sau cùng nói đến bổn phận của loài người đối với nhau. Riêng điều răn thứ tư vừa là bổn phận của loài người đối với Đức Chúa Trời vừa là bổn phận của loài người đối với chính mình. Đối với Đức Chúa Trời, ngày Thứ Bảy được biệt riêng (làm ngày thánh) để loài người tương giao với Thiên Chúa và thờ phượng Ngài một cách đặc biệt. Đối với loài người, ngày Thứ Bảy họ được nghỉ làm việc, được tạm gác những sự khó nhọc trong đời sống lại, để nhận lấy ơn phước đặc biệt Chúa ban trong sự gần gũi tương giao với Chúa, và với nhau. Vì thế, Đức Chúa Jesus mới phán: “Ngày Sa-bát đã được làm nên vì loài người”.

Điều quan trọng là, ngày Sa-bát đã được thiết lập từ buổi sáng thế, và khi Đức Chúa Trời kết giao ước với dân I-sơ-ra-ên thì Ngài biến sự giữ ngày Sa-bát thành một giao ước và một dấu hiệu để biệt riêng dân I-sơ-ra-ên khỏi các dân khác:

Ngươi hãy nói với con cháu của I-sơ-ra-ên rằng: Thật! Các ngươi sẽ giữ những ngày Sa-bát của Ta, vì đó là một dấu giữa Ta và các ngươi, trải qua các đời, để biết rằng, Ta, Đấng Tự Hữu Hằng Hữu, thánh hóa các ngươi.” (Xuất Ê-díp-tô Ký 31:13).

Chúng ta cần ghi nhớ rằng, dù Đức Chúa Trời thiết lập giao ước với dân I-sơ-ra-ên nhưng Ngài tiếp nhận những người thuộc các dân tộc khác, chịu sát nhập với dân I-sơ-ra-ên và chịu vâng phục Ngài.

Các con của người dân ngoại kết hiệp cùng Đấng Tự Hữu Hằng Hữu, để phụng sự Ngài, để yêu danh của Đấng Tự Hữu Hằng Hữu, để làm các tôi tớ của Ngài, là tất cả những người giữ ngày Sa-bát không làm ô uế nó, và giữ lời giao ước của Ta, thì Ta sẽ đem họ đến núi thánh của Ta, và làm cho họ được vui mừng trong nhà cầu nguyện của Ta. Các của lễ thiêu và các sinh tế của họ sẽ được nhận lấy trên bàn thờ của Ta; vì nhà của Ta sẽ được gọi là nhà cầu nguyện cho mọi dân tộc.” (Ê-sai 56:6-7).

Giữ “lời giao ước của Ta” tức là giữ Mười Điều Răn của Đức Chúa Trời. Bất cứ người thuộc các dân tộc nào không phải là dân I-sơ-ra-ên, nếu tôn kính và thờ phượng Thiên Chúa thì phải giữ ngày Sa-bát của Thiên Chúa và Mười Điều Răn của Đức Chúa Trời.

III. Ngày Sa-bát và Con Dân Chúa

Xưa nay, có nhiều cuộc tranh luận Thần học về việc con dân Chúa có cần giữ ngày Sa-bát hay không.

Quan điểm thứ nhất cho rằng, con dân Chúa không cần phải giữ ngày Sa-bát, vì Mười Điều Răn thuộc về giao ước cũ giữa Đức Chúa Trời và dân I-sơ-ra-ên. Những người bảo vệ quan điểm này dùng những câu Thánh Kinh sau đây để chứng minh, con dân Chúa không còn bị luật pháp ràng buộc:

Nhưng bây giờ chúng ta đã chết, đã thoát khỏi luật pháp, là sự mà chúng ta bị giam giữ trong đó, để chúng ta phục vụ trong sự mới mẻ của thần trí chứ không {trong} sự xưa cũ của văn tự.” (Rô-ma 7:6).

Vì vậy, chớ để ai phán xét các anh chị em trong thức ăn hay trong thức uống, hoặc trong sự dự phần của một ngày lễ hội, hoặc của Lễ Trăng Mới, hoặc của những Sa-bát.” (Cô-lô-se 2:16).

Quan điểm thứ hai cho rằng, con dân Chúa vẫn phải tuân giữ Mười Điều Răn, trong đó có điều răn giữ ngày Sa-bát. Không giữ ngày Sa-bát là vi phạm điều răn của Đức Chúa Trời và là dấu hiệu của sự bội đạo.

Chúng ta hãy dựa vào Lời Chúa là Thánh Kinh và sự soi dẫn của Đức Thánh Linh, để tìm xem quan điểm nào là đúng với lẽ thật.

Đức Thánh Linh, qua tác giả của Thi Thiên 119, đã khẳng định rằng, mọi điều răn của Đức Chúa Trời là chân thật và còn đến đời đời:

Hỡi Đấng Tự Hữu Hằng Hữu! Ngài ở gần. Mọi điều răn của Ngài là chân thật. Từ những chứng cớ của Ngài, tôi đã biết từ lâu rằng, Ngài đã lập chúng cho đến vĩnh cửu.” (Thi Thiên 119:151-152).

Đức Chúa Jesus đã khẳng định luật pháp và điều răn của Đức Chúa Trời không hề thay đổi:

Vì Ta phán với các ngươi, thật, cho tới khi trời và đất qua đi, một chấm hay một nét sẽ không qua đi khỏi luật pháp, cho đến khi mọi sự được trọn. Vậy, nếu ai bỏ đi một trong các điều cực nhỏ nào của các điều răn, và dạy người ta làm như vậy, thì người ấy sẽ bị xưng là cực nhỏ trong Vương Quốc Trời; còn ai giữ và dạy các điều ấy, thì sẽ được xưng là lớn trong Vương Quốc Trời.” (Ma-thi-ơ 5:18-19).

Đức Chúa Jesus cũng phán rằng, có nhiều người nghe theo truyền khẩu của loài người mà phạm điều răn của Đức Chúa Trời:

Nhưng Ngài đáp lời và phán với họ: Sao các ngươi cũng phạm điều răn của Đức Chúa Trời bởi những lời truyền khẩu của các ngươi?” (Ma-thi-ơ 15:3).

Đức Thánh Linh, qua Sứ Đồ Phao-lô, đã răn dạy Hội Thánh phải tuân giữ các điều răn của Đức Chúa Trời cho đến ngày Đấng Christ hiện ra:

Con hãy giữ điều răn cho không vết tích, không chỗ trách được, cho đến kỳ sự hiện ra của Đức Chúa Jesus Christ chúng ta…” (I Ti-mô-thê 6:14).

Đức Thánh Linh, qua Sứ Đồ Giăng, cũng đã dạy cho chúng ta biết, tình yêu của Đức Chúa Trời thể hiện trong chúng ta, qua sự chúng ta vâng giữ các điều răn của Ngài:

Vì này là tình yêu của Đức Chúa Trời, tức là chúng ta vâng giữ các điều răn của Ngài. Các điều răn của Ngài chẳng phải là nặng nề.” (I Giăng 5:3).

Như vậy, rõ ràng là con dân Chúa có bổn phận phải vâng giữ mọi điều răn và luật pháp của Đức Chúa Trời, như đã chép trong Thánh Kinh. Thế thì, chúng ta hiểu làm sao về những câu Thánh Kinh trong Rô-ma 7:4-6 và Cô-lô-se 2:16? Thiết tưởng Ga-la-ti 5:4 sẽ giúp làm sáng tỏ vấn đề cho chúng ta;

Đấng Christ trở thành vô ích cho bất cứ ai trong các anh chị em cậy luật pháp để được xưng công bình; các anh chị em bị mất ân điển.” (Ga-la-ti 5:4).

Phao-lô viết thư quở trách Hội Thánh tại Ga-la-ti không phải vì họ sống đời sống tốt đẹp, vâng giữ các điều răn của Đức Chúa Trời. Nhưng ông quở trách họ vì họ cậy vào việc vâng giữ các điều răn của Chúa để được cứu rỗi. Nội dung chính của thư Ga-la-ti lên án việc nhờ cậy vào những việc làm công đức để được cứu rỗi. Nhưng trong đoạn năm, Phao-lô khuyên Hội Thánh Ga-la-ti phải bước theo thần trí, trừ bỏ các việc làm tội lỗi của xác thịt, có nghĩa là con dân Chúa phải sống theo các điều răn của Đức Chúa Trời.

Rô-ma 7:4-6

4 Vậy nên, hỡi các anh chị em cùng Cha của tôi! Các anh chị em cũng đã chết đối với luật pháp qua thân thể của Đấng Christ, để các anh chị em thuộc về người khác, là Đấng đã sống lại từ những kẻ chết, để chúng ta được kết quả cho Đức Chúa Trời.

5 Vì khi chúng ta ở trong xác thịt thì những sự thôi thúc của tội lỗi, bởi luật pháp, cứ tác động trong các chi thể của chúng ta mà kết quả cho sự chết.

6 Nhưng bây giờ chúng ta đã chết, đã thoát khỏi luật pháp, là sự mà chúng ta bị giam giữ trong đó, để chúng ta phục vụ trong sự mới mẻ của thần trí chứ không trong sự xưa cũ của văn tự.

Phân đoạn Rô-ma 7:4-6 nói đến việc con dân Chúa được thoát khỏi món nợ đã gây ra đối với luật pháp và điều răn của Đức Chúa Trời. Nhưng điều đó không có nghĩa là luật pháp và điều răn không còn. Vì “luật pháp là thánh, điều răn là thánh, công bình, và tốt lành” (Rô-ma 7:12). Một người bị luật pháp nhốt tù vì vi phạm luật pháp, khi được trả tự do vì có người khác tình nguyện gánh thay hình phạt, không có nghĩa là người ấy có quyền vi phạm luật pháp. Luật pháp vẫn còn đó, nhưng người ấy không còn bị chế tài bởi luật pháp, vì sự phạm pháp của người ấy đã có người gánh thế. Nếu người ấy lại phạm pháp, thì lập tức sẽ bị luật pháp chế tài. Sự tự do chúng ta có trong Chúa là sự được thoát khỏi hình phạt của luật pháp nhờ sự chết chuộc tội của Đấng Christ; và được ban cho thánh linh để chúng ta có thể vâng giữ điều răn và luật pháp của Đức Chúa Trời cách trọn vẹn. Xin đọc hoặc nghe bài giảng Chú Giải Rô-ma 7:1-6 [1].

Cô-lô-se 2:16 không hề dạy rằng, con dân Chúa không cần giữ ngày Sa-bát Thứ Bảy.

Vì vậy, chớ để ai phán xét các anh chị em trong thức ăn hay trong thức uống, hoặc trong sự dự phần của một ngày lễ hội, hoặc của Lễ Trăng Mới, hoặc của những Sa-bát.” (Cô-lô-se 2:16).

Cô-lô-se 2:16 khuyên con dân Chúa chớ để cho bất cứ ai đoán xét mình về những nghi lễ của Do-thái Giáo, đặc biệt chớ để cho bất cứ ai đoán xét mình về việc giữ những ngày Sa-bát trong các kỳ lễ hội thời Cựu Ước. Mặc dù con dân Chúa không cần phải giữ các ngày lễ hội trong Cựu Ước, vì bảy kỳ lễ hội đó làm hình bóng về những điều Đấng Christ sẽ làm cho con dân Chúa. Nhưng nếu có ai muốn giữ các kỳ lễ hội ấy cùng các ngày Sa-bát của chúng thì người ấy không cần quan tâm đến lời chỉ trích của bất cứ ai.

Sau khi Đấng Christ đã đến thì con dân Chúa không cần phải giữ các kỳ lễ hội đó theo nghĩa đen. Điển hình là Lễ Vượt Qua đã hiện thực trong sự chết chuộc tội của Đấng Christ và được ghi nhớ bằng Lễ Tiệc Thánh. Chính vì con dân Chúa không cần phải giữ bảy kỳ lễ hội hình bóng trong thời Cựu Ước mà con dân Chúa không cần phải giữ các ngày Sa-bát trong các kỳ lễ hội đó, bao gồm: ngày Sa-bát đầu và cuối của Lễ Bánh Không Men; ngày Sa-bát của Lễ Ngũ Tuần; ngày Sa-bát của Lễ Thổi Kèn; ngày Sa-bát của Lễ Chuộc Tội; và ngày Sa-bát đầu và cuối của Lễ Lều Trại. Xin đọc hoặc nghe bài giảng Chú Giải Cô-lô-se 2:16-23 [2].

Là tín đồ của Đấng Christ, chúng ta không bị ràng buộc phải làm một điều gì đó để được cứu rỗi, ngoại trừ việc chúng ta thật lòng ăn năn tội và hoàn toàn tin nhận sự cứu rỗi của Đức Chúa Trời. Một người thật sự ăn năn tội là một người dứt khoát không muốn sống trong tội, không muốn phạm tội. Khi chúng ta thật sự ăn năn tội và hoàn toàn tin nhận sự cứu rỗi của Đức Chúa Trời thì Ngài tái sinh chúng ta. Tái sinh có nghĩa là Đức Chúa Trời tái tạo dựng chúng ta thành một tạo vật mới (II Cô-rinh-tô 5:17) bởi quyền năng của Đức Thánh Linh (Giăng 1:13; 3:5-6); và Đức Thánh Linh ban cho chúng ta thánh linh để chúng ta có thể sống một đời sống mới “vừa muốn, vừa làm theo ý tốt của Ngài” (Phi-líp 2:13), bởi sự thêm sức của Đấng Christ (Phi-líp 4:13). Vì thế, tín đồ của Đấng Christ không vâng giữ điều răn và luật pháp để được cứu rỗi, nhưng vâng giữ điều răn và luật pháp của Chúa vì đó là bản chất của một người được dựng nên mới trong Đấng Christ. Một người chân thật yêu kính Chúa, sống cho Chúa sẽ luôn luôn vâng giữ tất cả những gì học được từ trong Lời Chúa, là Thánh Kinh.

Chúng ta không vâng giữ điều răn và luật pháp để được cứu, nhưng chúng ta được cứu để sống theo, để vui thỏa trong điều răn và luật pháp của Đức Chúa Trời. Đó cũng là ý nghĩa của câu phán: “Các ngươi đừng tưởng rằng, Ta đến để phá bỏ luật pháp hay những lời tiên tri. Ta không đến để phá bỏ, nhưng để làm trọn.” (Ma-thi-ơ 5:17).

Chúng ta cũng cần biết thêm, Tiên Tri Ê-sai và Tiên Tri Ê-xê-chi-ên đã tiên tri rằng, trong một ngàn năm bình an, muôn dân trên đất, không riêng gì dân I-sơ-ra-ên, sẽ thờ phượng Thiên Chúa trong những ngày Sa-bát:

Sẽ xảy ra thường xuyên từ ngày trăng mới đến ngày trăng mới và thường xuyên từ ngày Sa-bát đến ngày Sa-bát, mọi xác thịt sẽ đến thờ phượng trước mặt Ta. Đấng Tự Hữu Hằng Hữu phán.” (Ê-sai 66:23).

Và dân sự của đất sẽ thờ phượng tại cửa của cổng ấy vào những ngày Sa-bát và vào những ngày trăng mới, trước mặt Đấng Tự Hữu Hằng Hữu.” (Ê-xê-chi-ên 46:3).

Hai lời tiên tri trên đây đã đánh tan lời ngụy biện cho rằng, con dân Chúa không cần nhóm hiệp thờ phượng Chúa trong ngày Sa-bát; hoặc sự nhóm hiệp thờ phượng Chúa trong ngày Sa-bát chỉ dành riêng cho dân I-sơ-ra-ên.

Lời Chúa dạy, con dân Chúa thuộc các dân tộc khác đều được kể là con cháu thật của Áp-ra-ham, đều được hiệp một với dân I-sơ-ra-ên.

Như Áp-ra-ham tin Đức Chúa Trời, thì đã kể là công bình cho người; vậy, các anh chị em hãy nhận biết rằng, những người có đức tin thì họ là con cháu của Áp-ra-ham.” (Ga-la-ti 3:6-7).

Nếu có những nhánh bị cắt đi và ngươi vốn là cây ô-li-ve hoang được tháp vào trong chỗ của chúng, dự phần về rễ và nhựa của cây ô-li-ve, thì chớ khoe mình nghịch lại các nhánh đó. Nhưng nếu ngươi khoe mình thì hãy biết rằng, chẳng phải ngươi chịu đựng cái rễ mà là cái rễ chịu đựng ngươi.” (Rô-ma 11:17-18).

Vì thế, ai xưng nhận mình là con dân Chúa mà lại cho rằng, mình không phải là dân I-sơ-ra-ên thì người ấy không thuộc về Chúa.

IV. Nguyên Tắc Giữ Ngày Sa-bát

Chúng ta cần ghi nhớ, sự giữ ngày Sa-bát theo tinh thần của điều răn thứ tư hoàn toàn khác với sự giữ ngày Sa-bát theo các luật lệ truyền thống do loài người đặt ra của Do-thái Giáo. Con dân Chúa giữ ngày Sa-bát theo các nguyên tắc sau:

  • Ngày Sa-bát là ngày Thứ Bảy trong tuần (Xuất Ê-díp-tô Ký 20:9-10), trong khắp những nơi con dân Chúa cư trú, tức là theo múi giờ địa phương, nơi con dân Chúa cư trú (Lê-vi Ký 23:3). Ngày Sa-bát bắt đầu từ khi mặt trời lặn (hoặc từ 6 giờ chiều) của ngày Thứ Sáu cho đến khi mặt trời lặn (hoặc đến 6 giờ chiều) của ngày Thứ Bảy. Sáu giờ chiều là giờ trung bình mặt trời lặn ở đường xích đạo, bắt đầu cho một ngày mới, theo cách tính ngày của Thánh Kinh.

  • Mọi người và mọi súc vật không làm việc trong ngày Sa-bát (Xuất Ê-díp-tô Ký 20:10; Lê-vi Ký 23:3; Phục Truyền Luật Lệ Ký 5:14).

  • Không mua bán trong ngày Sa-bát (Nê-hê-mi 10:31; 13:15-17).

  • Không mang vác nặng trong ngày Sa-bát (Nê-hê-mi 13:19; Giê-rê-mi 17:21).

  • Nhóm họp để thờ phượng Chúa trong ngày Sa-bát (Lê-vi Ký 23:3).

  • Dâng hiến lên Chúa trong ngày Sa-bát (Dân Số Ký 28:9-10).

  • Giảng Lời Chúa trong ngày Sa-bát (Lu-ca 4:31; 6:6; Công Vụ Các Sứ Đồ 13:14, 15, 44; 17:2; 18:4).

  • Đọc Lời Chúa trong ngày Sa-bát (Công Vụ Các Sứ Đồ 13:27; 15:21).

  • Làm việc thiện trong ngày Sa-bát (Ma-thi-ơ 12:12; Lu-ca 13:16; Giăng 9:14).

  • Được phép giải quyết những nhu cầu thiết thực, như: ăn uống, cho gia súc ăn uống, bảo vệ tài sản trong lúc cấp bách… (Ma-thi-ơ 12:1; Lu-ca 13:15; 14:1).

V. Phước của Những Người Giữ Ngày Sa-bát

Những người giữ ngày Sa-bát của Thiên Chúa, bất kể họ thuộc dân tộc nào hoặc thuộc thành phần nào trong xã hội, Thiên Chúa sẽ ban cho họ các phước sau đây (Ê-sai 56:1-7; 58:13-14):

  • Họ được ban cho chỗ ở trong nhà và trong thành của Thiên Chúa, tức trong đền thờ và trong thành thánh Giê-ru-sa-lem ở trên trời.

  • Họ được ban cho danh tốt hơn danh của con trai hoặc con gái. Danh ấy sẽ còn tới đời đời.

  • Họ sẽ được lên núi thánh của Thiên Chúa tức Si-ôn ở trên trời. Họ sẽ được vui thỏa trong nhà của Thiên Chúa tức trong Đền Thờ của Thiên Chúa ở trên trời.

  • Họ sẽ được vui thỏa trong Đấng Tự Hữu Hằng Hữu.

  • Ngài sẽ khiến cho họ được thịnh vượng trên đất.

Kết Luận

Đức tin của con dân Chúa hoàn toàn dựa trên Thánh Kinh, Lời Hằng Sống của Thiên Chúa. Đức tin của con dân Chúa không dựa trên quan điểm Thần học nghịch Thánh Kinh; không dựa trên các tín lý nghịch Thánh Kinh của các giáo hội; cũng không dựa trên các điều răn do loài người lập ra. Con dân Chúa dù có thể biết đến Chúa và tin nhận sự cứu rỗi của Chúa qua sự rao giảng của các giáo hội nhưng mỗi người có bổn phận đọc, suy ngẫm Lời Chúa ngày đêm, và cẩn thận làm theo Lời Chúa. Vì Lời Chúa đã được ban cho loài người cách đầy đủ trong Thánh Kinh.

Cuốn sách luật pháp này chớ xa miệng ngươi, nhưng ngươi hãy suy ngẫm ngày và đêm, để cẩn thận làm theo mọi điều đã chép ở trong. Vì như vậy, ngươi sẽ được thịnh vượng trong đường lối mình và ngươi sẽ hành động thông sáng.” (Giô-suê 1:8).

Chính Lời Chúa chứ không phải bất cứ một lời nào của loài người hay bất cứ một tư tưởng nào của loài người khiến cho chúng ta được khôn sáng; được cứu rỗi bởi đức tin; được dạy dỗ, quở trách, sửa trị; để khiến chúng ta được sẵn sàng và trọn vẹn cho mọi việc lành.

Từ khi còn thơ ấu, con đã biết Thánh Kinh có năng lực khiến con khôn sáng, dẫn đến sự cứu rỗi bởi đức tin, là sự ở trong Đấng Christ Jesus. Cả Thánh Kinh do Thiên Chúa hà hơi, có ích cho sự giảng dạy, cho sự quở trách, cho sự sửa trị, cho sự giáo dục trong sự công bình, [hà hơi = ban sự sống; thần cảm] để người của Đức Chúa Trời được trọn vẹn và sẵn sàng cho mọi việc lành.” (II Ti-mô-thê 3:15-17).

Là con dân Chúa, chúng ta hãy cùng nhau tôn thánh ngày Sa-bát Thứ Bảy theo điều răn của Đức Chúa Trời.

Con dân Chúa có thể nhóm hiệp thờ phượng Chúa bất kỳ khi nào nhưng con dân Chúa không thể bỏ qua sự nhóm hiệp thờ phượng Chúa trong ngày Sa-bát Thứ Bảy.

Chớ bỏ qua sự nhóm hiệp của chúng ta như thói quen của một số người, nhưng hãy khuyên bảo nhau, và khuyên bảo càng hơn khi các anh chị em thấy ngày ấy càng gần.” (Hê-bơ-rơ 10:25).

Ngày ấy càng gần là ngày Đấng Christ đến để đem Hội Thánh ra khỏi thế gian, cũng là ngày Đấng Christ phán xét Hội Thánh. Ai trung tín thì thân thể xác thịt sẽ được sống lại hoặc được biến hóa thành thân thể vinh quang bất tử, và được vào thiên đàng với Đấng Christ. Ai không trung tín thì thân thể xác thịt đã chết vẫn chưa được sống lại, và nếu đang sống thì sẽ bị bỏ lại.

Hãy biết rằng, trong khắp cả Thánh Kinh, Thiên Chúa chỉ kêu gọi con dân Chúa nhóm hiệp thờ phượng Ngài trong ngày Sa-bát Thứ Bảy và trong những ngày Sa-bát lễ hội, chứ không vào một ngày nào khác. Người cố ý bỏ qua sự nhóm hiệp trong ngày Sa-bát là người cố ý phạm tội và sẽ không có sự tha thứ dành cho người cố ý sống trong sự phạm tội:

Vì nếu chúng ta cố ý phạm tội sau khi đã nhận lãnh tri thức về lẽ thật, thì không còn được chừa lại cho chúng ta sinh tế chuộc những tội lỗi.” (Hê-bơ-rơ 10:26).

Đã đến lúc con dân Chúa từ bỏ bất cứ sự giảng dạy nào không đúng Lời Chúa, quay về với Lời Chúa để sống theo Lời Chúa, chuẩn bị cho sự hiện ra vinh quang của Đức Chúa Jesus Christ.

Nguyện Đức Thánh Linh dẫn chúng ta vào trong mọi lẽ thật của Lời Chúa (Giăng 16:13). Nguyện Lời Chúa thánh hóa chúng ta (Giăng 17:17). Nguyện Đức Chúa Trời thành tín của sự bình an giữ cho tâm thần, linh hồn, và thân thể xác thịt của chúng ta nên thánh trọn vẹn, không chỗ trách được, cho sự đến của Đức Chúa Jesus Christ (I Tê-sa-lô-ni-ca 5:23). A-men!

Huỳnh Christian Timothy
Huỳnh Christian Priscilla
14/11/2020

Ghi chú:

[1] https://timhieuthanhkinh.com/chu-giai-ro-ma-7_1-6/

[2] https://timhieuthanhkinh.com/chu-giai-co-lo-se-2_16-23/

Karaoke Thánh Ca: “Vì Sao Chúa Dấn Thân”
https://karaokethanhca.net/vi-sao-chua-dan-than/

Thánh Kinh Việt Ngữ Bản Hiệu Đính 2012: Các câu Thánh Kinh được trích dẫn trong bài này là theo Thánh Kinh Việt Ngữ Bản Hiệu Đính 2012. Đây là bản Thánh Kinh Việt Ngữ trên mạng, đang trong tiến trình hiệu đính để hoàn thành Thánh Kinh Việt Ngữ Bản Dịch Ngôi Lời. Quý con dân Chúa có thể đọc tại đây: https://thewordtoyou.net/bible/.

  • Các chữ nằm trong hai dấu { } không có trong nguyên văn của Thánh Kinh, nhưng được hàm ý theo cấu trúc của văn phạm tiếng Hê-bơ-rơ và tiếng Hy-lạp.

  • Các chữ nằm trong hai dấu [ ] không có trong nguyên văn của Thánh Kinh, đó là chú thích của người dịch.

Những sách nào đã được hiệu đính hoàn toàn sẽ được đăng tại đây: https://christ.thanhkinhvietngu.net/.